Kiểm soát và quản lý bệnh hoại tử gan tụy cấp tính

Bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) được xác định ngoài tác nhân là Vibro parahaemolyticus.

Tôm thẻ
Tôm thẻ chân trắng. Ảnh: enaca.org

Ngoài ra, còn có các chủng Vibrio khác như V. punensis, V. harveyi, V.owensii, V. campbelli) và thậm chí không phải Vibrio spp. (Shewanella sp.), tuy nhiên các chủng này phải có chứa plasmid mang gen độc tố PirA, PirB. Loài lây nhiễm là tôm sú P. monodon, tôm thẻ chân trắng L. vannamei, tôm càng xanh M. rosenbergii, tôm kuruma Marsupenaeus japonicus và loài giáp xác khác như Artemia franciscana.

Kể từ khi dịch AHPND lần đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc năm 2009 lan sang Việt Nam (2010), sau đó được ghi nhận ở các nước Malaysia (2011), Thái Lan (2012), Mexico (2013), Philippines (2015), Australia (2016), Nam Mỹ (2016), Đài Loan (2018), Mỹ (2019), Bangladesh (2019), Hàn Quốc (2019), Nhật Bản (2020).

Toàn cảnh dịch bệnhKể từ khi dịch AHPND lần đầu tiên xuất hiện ở Trung Quốc năm 2009 lan sang Việt Nam (2010) rồi dần lây sang cho nhiều nước khác. Ảnh: vliz.be

Tình trạng hiện tại các biện pháp phòng trừ AHPND chủ yếu tập trung vào quản lý ao nuôi (sục khí, cho ăn, v.v.) và khử trùng trước khi thả tôm giống. Tuy nhiên, những cách tiếp cận này không có khả năng ngăn chặn theo tình hình dịch tễ học một khi AHPND đã nổi lên trong ao hoặc trong các ao lân cận và do đó các biện pháp điều trị hiệu quả hơn đang rất cần thiết để kiểm soát AHPND trên tôm. 

Cách tiếp cận thông thường được áp dụng như vậy trong việc giảm thiểu hoặc chữa khỏi các chủng V. parahaemolyticus AHPND, chẳng hạn như làm gián đoạn cho ăn hoặc áp dụng kháng sinh và thuốc khử trùng đã hạn chế. 

Ngoài ra, do sự phát triển của nhiều loại kháng thuốc, việc sử dụng chúng trong lĩnh vực sản xuất thực phẩm đang được khoa học và các quốc gia giám sát chặt chẽ. Ví dụ, vi khuẩn gây bệnh AHPND chủng V. parahaemolyticus từ Mexico (13-511/A1 và 13-306D/4) được báo cáo là mang gen tetB mã hóa cho gen kháng tetracycline, và V. campbellii từ Trung Quốc là được phát hiện mang nhiều gen kháng kháng sinh, do đó việc áp dụng các phương pháp truyền thống các phương pháp như kháng sinh có thể không hiệu quả để kiểm soát AHPND trong hệ thống nuôi tôm, đặc biệt là trong dài hạn.

Hầu hết các biện pháp điều trị và kiểm soát được phát triển chủ yếu nhắm vào AHPND bởi V. parahaemolyticus. Tuy nhiên, sự hiện diện của plasmid pVA1 gây AHPND (63– 70 kb) mã hóa các độc tố nhị phân có tên là PirA và PirB ở loài không phải Vibrio parahaemolyticus và thậm chí trên các loài không phải Vibrio đã tạo ra mối lo ngại kể từ khi các biện pháp quản lý được sử dụng để kiểm soát một chủng vi khuẩn gây AHPND cụ thể có thể không hữu ích và có thể tạo áp lực kinh tế không mong muốn cho người nuôi. Vì vậy, các biện pháp quản lý được thông qua, dựa trên sự hiện diện hay vắng mặt của độc tố PirAB trong tôm và nuôi trồng thủy sản có thể phù hợp hơn để kiểm soát và diệt trừ AHPND khỏi hệ thống nuôi tôm. 

Tôm thiếu hệ thống miễn dịch thích nghi, dựa vào các thành phần tế bào và thể dịch của chúng trong phản ứng miễn dịch bẩm sinh để chống lại mầm bệnh xâm nhập, do đó tôm sự phát triển của các tác nhân trị liệu giúp tăng cường đáp ứng miễn dịch thích nghi, ví dụ, vắc-xin chống lại bệnh truyền nhiễm trong nuôi tôm đã đạt được thành công rất hạn chế. 

Do đó, các phương pháp có thể tăng cường phản ứng miễn dịch bẩm sinh của vật chủ và tăng cường bệnh tật sức đề kháng chống lại bệnh tật đã thu hút nhiều sự quan tâm trong những năm gần đây. 

Bệnh gây ra bởi mầm bệnh vi khuẩn trong các hệ thống nuôi tôm thường được kiểm soát bằng cách sử dụng chiến lược quản lý thích hợp, bao gồm bổ sung chất kích thích miễn dịch, prebiotic, men vi sinh hoặc phage, duy trì chất lượng nước tối ưu, mật độ thả, chất lượng hậu ấu trùng, sục khí và chất lượng nước và số lượng thức ăn. 

Men vi sinh (Probiotic): Các vi khuẩn probiotic có khả năng tiết ra một loạt của các chất ngoại bào và peptide kháng khuẩn, giúp cải thiện quá trình tiêu hóa thức ăn và hấp thụ, tăng cường sức khỏe và khả năng miễn dịch của tôm, thúc đẩy tăng trưởng và sinh sản của tôm, và tăng cường khả năng sống sót khi tiếp xúc với vi sinh vật gây bệnh. 

Liệu pháp phage: Thực khuẩn thể (bacteriophages) là virus, với bộ gen dsRNA, ssRNA, dsDNA và ssDNA, có thể lây nhiễm sinh vật nhân sơ. Xạ khuẩn có nhiều trong tự nhiên và đã được tìm thấy ở cả môi trường trên cạn và dưới nước. Vòng đời của thể thực khuẩn bao gồm giai đoạn lytic (phân giải vi khuẩn) hoặc một giai đoạn lysogen. 

Trong nuôi tôm, việc sử dụng liệu pháp thực khuẩn thể đã và đang được nghiên cứu sử dụng. Các phage được xác định có thể diệt vi khuẩn gây bệnh trên tôm có thể thuộc họ Siphoviridae hoặc Myoviridae. Trong đó, họ Siphoviridae được báo cáo là thể thực khuẩn lylic.

Thực thể khuẩnVòng đời của thể thực khuẩn bao gồm giai đoạn lytic (phân giải vi khuẩn) hoặc một giai đoạn lysogen. Ảnh: mdpi.com

Các hợp chất có nguồn gốc từ thực vật và/hoặc tự nhiên: Thực vật là một nguồn phong phú các hợp chất hoạt tính sinh học như alkaloid và glycoside và phenol hoặc các dẫn xuất thay thế oxy của chúng có thể đóng vai trò là chất kháng khuẩn tiềm năng để kiểm soát nhiễm vi khuẩn gây bệnh trong nuôi tôm. 

Hơn nữa, tự nhiên hoặc các sản phẩm từ thực vật được ưa chuộng hơn vì khả năng phân hủy sinh học của chúng trong môi trường, tức là, dư lượng từ xử lý hợp chất có nguồn gốc thực vật có xu hướng phân hủy sinh học trong nước trong khi đó, từ thuốc kháng sinh hoặc xử lý hóa học khác. 

Quản lý môi trường nước nuôi: Nuôi tôm trong hệ thống biofloc có thể là một chiến lược thay thế đầy hứa hẹn để cải thiện điều kiện môi trường và tình trạng sức khỏe của động vật nuôi. 

Nguyên tắc cơ bản của hệ thống biofloc là tái chế chất thải dinh dưỡng, đặc biệt là nitơ vô cơ dẫn đến từ thức ăn thừa và phân thành sinh khối vi sinh vật, có thể được sử dụng tại chỗ bởi động vật nuôi hoặc được thu hoạch và chế biến thành nguyên liệu thức ăn. 

Áp dụng các biện pháp thực hành quản lý trang trại tốt hơn, người nuôi tôm có thể kiểm soát AHPND và tránh thiệt hại trong sản xuất. Các biện pháp trước và sau thả giống, bao gồm đánh giá và sàng lọc sức khỏe tình trạng hậu ấu trùng, đánh giá chất lượng thức ăn và khử trùng nguyên liệu đầu vào rất hữu ích để kiểm soát AHPND trong các trang trại nuôi tôm.

Nguồn: Kumar, V., Roy, S., Behera, B. K., Bossier, P., & Das, B. K. (2021). Acute hepatopancreatic necrosis disease (AHPND): virulence, pathogenesis and mitigation strategies in shrimp aquaculture. Toxins, 13(8), 524.

Đăng ngày 15/08/2023
Hồng Huyền @hong-huyen
Dịch bệnh

Nấm đồng tiền xuất hiện trên nhá tôm: Nhận biết và cách xử lý

Nấm đồng tiền hay còn gọi là nấm chân chó, theo cách gọi dân gian của người nuôi, thực chất là một loại địa y chứ không đơn thuần là một loại nấm. Nấm đồng tiền có mùi tanh nồng, thường xuất hiện trong các ao nuôi tôm lâu năm, bám chặt vào nhá cho ăn, bạt, đất, đá và các dụng cụ trong ao gây nhiều khó khăn cho người nuôi.

Nấm đồng tiền
• 11:01 17/12/2024

Không nên tin tưởng sản phẩm quảng cáo "trị dứt điểm EHP"

Hiện nay, nhiều người nuôi tôm đang đối mặt với những lời quảng cáo đầy hứa hẹn về các sản phẩm “trị dứt điểm EHP”.

EHP trên tôm
• 11:00 16/12/2024

EHP: Cơn ác mộng của người nuôi tôm

Trong những năm gần đây, ngành nuôi tôm đã đối mặt với nhiều thách thức, trong đó EHP (Enterocytozoon hepatopenaei) đã nổi lên như một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất.

Tôm bệnh EHP
• 09:50 12/12/2024

Hạn chế thiệt hại từ EHP trong nuôi tôm

Bệnh do ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) là một trong những thách thức lớn đối với ngành nuôi tôm hiện nay.

Tôm EHP
• 09:51 10/12/2024

Các biện pháp xử lý nước trước khi thả tôm

Đối với người nuôi tôm, việc xử lý nước nuôi tôm là rất quan trọng. Khi nguồn nước trong ao luôn sạch, sẽ giúp cho tôm khỏe mạnh, mau lớn và phòng tránh được rất nhiều loại bệnh. Sau đây là biện pháp xử lý nước trước khi thả tôm vào ao nuôi.

Xử lý nước
• 13:25 15/01/2025

Giá cá tra xuất khẩu đầu năm 2025: Tín hiệu tăng trưởng lạc quan

Bước vào đầu năm 2025, thị trường cá tra xuất khẩu đang chứng kiến những tín hiệu tích cực. Sau giai đoạn suy giảm trong năm ngoái do ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu, giá cá tra hiện đang phục hồi ổn định và có xu hướng tăng.

Cá tra
• 13:25 15/01/2025

Rong biển: Người dọn dẹp tiềm năng cho môi trường thủy sản

Rong biển, một loài thực vật biển đa năng, không chỉ đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái mà còn mang lại nhiều lợi ích cho ngành thủy sản. Với khả năng làm sạch môi trường nước và hỗ trợ nuôi trồng thủy sản bền vững, rong biển đang trở thành một giải pháp tự nhiên được nhiều quốc gia quan tâm và áp dụng.

Rong biển
• 13:25 15/01/2025

Vẹm xanh: Nhiều công dụng tuyệt vời với sức khức khỏe con người

Vẹm xanh – loài nhuyễn thể hai mảnh từ đại dương – không chỉ là món ăn giàu dinh dưỡng mà còn mang lại nhiều giá trị tuyệt vời cho sức khỏe. Với hàm lượng dinh dưỡng vượt trội, vẹm xanh thực sự xứng đáng được gọi là “siêu thực phẩm” cho sức khỏe.

Vẹm xanh
• 13:25 15/01/2025

Tôm thẻ Việt Nam trên thị trường quốc tế

Tôm thẻ chân trắng đã trở thành một trong những sản phẩm chủ lực của ngành thủy sản Việt Nam, đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu và khẳng định vị thế của nước ta trên thị trường quốc tế. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, kỹ thuật nuôi trồng ngày càng cải tiến, và chiến lược phát triển bền vững, tôm thẻ Việt Nam đang từng bước chinh phục thị trường toàn cầu, đáp ứng yêu cầu khắt khe từ các quốc gia nhập khẩu.

Tôm thẻ chân trắng
• 13:25 15/01/2025
Some text some message..