Thức ăn là bánh mì vụn mà bà cụ mua ở các lò bánh mì. “Món” thứ hai cho các “cụ” rùa là cơm thừa nhưng được bà phơi khô sạch sẽ ở nhà và cẩn thận cho vào bao nylon mang ra hồ Gươm. Cố gắng hết sức, bà lấy đà đẩy hết thức ăn ra xa bờ hồ. “Cụ” rùa với cái đầu bạc thếch lẳng lặng nhô mình ở phía xa, thỉnh thoảng lại chép miệng nhấm nháp thức ăn. Bắt đầu từ năm 1954 đến nay, chiều nào bà cũng ra đây.
Trong hơi thở hổn hển, bà kể về cuộc đời nhiều sóng gió đã qua. Bà Gái quê ở huyện Đông Anh, là con nhà nho giáo nhưng vì đông anh em nên năm 1940 bà phải lên Hà Nội ngồi bán bánh trước ga Hàng Cỏ. Cô thiếu nữ 17 tuổi sau đó lấy chồng giống y chang “cuộc tình” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (của nhà văn Kim Lân).
Trong thời gian bán bánh, bà quen ông Nguyễn Văn Mẩu - nhân viên hỏa xa. Nhà ông Mẩu nghèo nên ông chậm vợ, 40 tuổi còn độc thân. Nhiều lần gặp nhau nhưng cụ Gái không bao giờ để ý đến người đàn ông lớn tuổi kia. Bất chợt một hôm ông đến mua nắm cơm rồi bảo: “Có thương tôi thì về làm vợ”. Thế là bà Gái dọn về nhà chồng nằm sâu trong ngõ Phất Lộc. Những năm sau đó, bà vẫn tiếp tục bán bánh và trở thành “pho sử” của đất Hà thành. Bà vẫn nhớ mãi nạn đói năm 1945. Đói đến nỗi người ta cướp bánh của bà, có người ăn bánh xong là... lăn đùng ra chết vì bội thực! Không lâu sau đó, cụ ông mãi mãi ra đi, bỏ mình bà ở lại. Bà vẫn bán bánh để kiếm sống mà người miền Bắc hay gọi là bán quà. Thời bao cấp, cuộc sống ở thủ đô còn khó khăn nên quán nhỏ của bà vắng khách lắm. Bà vẫn nhớ mãi những chuyến xe xích lô, xe buýt thô sơ trên hành trình di chuyển của bà.
Từ năm 1975 đến nay, bà tự nguyện “vác tù và hàng tổng”, đi kiếm bánh mì vụn, đem cơm phơi khô để cho các “cụ” rùa ăn. Bà Gái bảo rằng, bà phải lo cho các “cụ” ăn nghiêm chỉnh, kỹ lưỡng vì đụng thức ăn dơ bẩn, nhỡ “cụ” bị ốm đau thì sao? Có lần, một anh bảo vệ bờ hồ (cắm chốt ở phía đường Lê Thái Tổ, Báo Khánh) thấy bà Gái hành động là lạ. Anh tiến đến hỏi thức ăn cho “cụ” rùa có sạch không? Không ngần ngại, bà lấy bánh mì vụn bỏ vào miệng rồi nhai ngấu nghiến. Thấy thế anh bảo vệ ăn thử và gật gù khen ngon. Bà Gái tâm sự: “Tôi luôn vận động mọi người cho các “cụ” rùa ăn món ngon, chứ không được bỏ thức ăn dở xuống làm ô nhiễm hồ Hoàn Kiếm”.
Nay ở cái tuổi 89, bà Gái đã mệt mỏi vì sức yếu. Viễn khách và người dân vui chơi xung quanh hồ ít chú ý đến bà nhưng chúng tôi thầm cảm phục một bà cụ đất Thăng Long ngàn xưa đã làm một công việc đơn giản nhưng vô cùng ý nghĩa mà ít ai làm được. Một mai này bà Gái không còn đảm đương được công việc này nữa thì sẽ buồn biết mấy!