* Cơ hội đan xen thách thức
Theo các chuyên gia, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là hiệp định thương mại tự do lớn nhất thế giới, chiếm 40% tổng GDP và hơn 30% tổng thương mại toàn cầu. Tham gia TPP, Việt Nam có nhiều tiềm năng về xuất khẩu nông thủy sản. Khi mở cửa thị trường, các mặt hàng rau quả, thủy sản, cà phê, điều… có nhiều cơ hội xuất khẩu. Trong khi đó, ngành chăn nuôi sẽ khó có khả năng cạnh tranh do quy mô nhỏ lẻ, manh mún. Bà Nguyễn Thị Thúy Hằng, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Đấu thầu-Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho biết: Với TPP, xuất khẩu rau quả của Việt Nam có khả năng tăng trưởng mạnh vì là sản phẩm nhiệt đới, có sự bổ trợ cho sản phẩm của các nước ôn đới. Đồng thời, khi nhập khẩu sản phẩm rau quả từ các nước này vào Việt Nam cũng không cạnh tranh nhiều với sản phẩm trong nước. Tuy nhiên cái khó hiện nay là rau quả của Việt Nam còn sản xuất manh mún, khó đáp ứng các đơn hàng lớn. Còn đối với ngành chăn nuôi, sản phẩm gà Việt Nam sẽ khó cạnh tranh với gà nhập khẩu từ Hoa Kỳ, thịt bò tươi sống và sữa khó cạnh tranh với Úc, New Zealand.
Đầu năm 2016, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA) dự kiến sẽ có hiệu lực. Với Hiệp định này, đối với các mặt hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, Hàn Quốc cam kết ưu đãi cắt giảm thuế quan, tạo cơ hội xuất khẩu cho nhóm hàng nông thủy sản chủ lực như tôm, cua, cá, hoa quả nhiệt đới, thực phẩm chế biến. Ông Hong Won Sik, Tổng Giám đốc Lotte Mart Việt Nam, chia sẻ: Hiện Lotte có 285 cửa hàng tại 4 quốc gia gồm Hàn Quốc, Việt Nam, Trung Quốc và Indonesia. Với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA), sẽ có nhiều mặt hàng của Việt Nam được nới lỏng để đi vào thị trường Hàn Quốc. Các quy định về kiểm dịch, an toàn vệ sinh thực phẩm của Hàn Quốc rất ngặt nghèo. Do đó, doanh nghiệp muốn chọn mặt hàng nào xuất khẩu sang Hàn Quốc phải đảm bảo tuân thủ những quy định này. Tuy nhiên, Hàn Quốc không chỉ nhập khẩu từ Việt Nam mà còn từ nhiều quốc gia khác như Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan.... Sản phẩm hàng hóa của Việt Nam khi vào Hàn Quốc không chỉ phải cạnh tranh với doanh nghiệp Hàn Quốc mà còn cạnh tranh với sản phẩm đến từ nhiều quốc gia khác.
Các hiệp định thương mại được ký kết và chính thức có hiệu lực, ngoài cơ hội xuất khẩu mở ra cho doanh nghiệp Việt, thị trường trong nước cũng mở cửa đón dòng hàng hóa nhập khẩu từ các nước thành viên tham gia ký kết Hiệp định thương mại, đón các nhà đầu tư FDI vào Việt Nam. Và tại các nước nhập khẩu, doanh nghiệp Việt sẽ cạnh tranh với rất nhiều doanh nghiệp đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Sản phẩm nông thủy sản của Việt Nam có nhiều cơ hội hưởng lợi từ các Hiệp định thương mại tự do song sức cạnh tranh còn hạn chế, chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chưa hoàn thiện, sản phẩm xuất khẩu phải đối mặt với rào cản kỹ thuật, các vấn đề về vệ sinh dịch tể... Để tận dụng được lợi ích mang lại từ các Hiệp định thương mại tự do, doanh nghiệp Việt Nam cần tranh thủ nguồn lực tài chính để phát triển và nâng cao chuỗi giá trị các mặt hàng nông, thủy sản chủ lực.
* Ðầu tư hoàn thiện chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị ngành hàng trong sản xuất nông nghiệp cần được thống nhất từ đầu vào đến đầu ra. Chẳng hạn như sản xuất lúa gạo, trái cây phải bắt nguồn từ khâu giống đến khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch, chế biến, bảo quản, đóng bao bì, vận chuyển và tiêu thụ. Ông Hong Won Sik, Tổng Giám đốc Lotte Mart Việt Nam, cho biết thêm: Nhiều sản phẩm của Việt Nam rất được người tiêu dùng Hàn Quốc ưa chuộng như rau quả, thực phẩm chế biến, dụng cụ gia dụng, đồ dùng nhà bếp... Khi đưa sản phẩm thực phẩm tươi sống và thực phẩm chế biến của Việt Nam vào bán tại hệ thống cửa hàng của Lotte Mart tại Hàn Quốc, ngoài việc chú ý đến hương vị, chúng tôi còn quan tâm đến tính đồng nhất của sản phẩm về kích cỡ, chất lượng, màu sắc, độ ngọt nhất là đối với các loại trái cây. Thời gian nhập khẩu vào Hàn Quốc cũng phải đảm bảo phù hợp theo mùa, theo thời tiết của Hàn Quốc. Các sản phẩm chế biến cũng cần đổi mới hơn về bao bì sao cho bắt mắt vì hiện nay khâu đóng gói, thiết kế bao bì cho sản phẩm của doanh nghiệp Việt còn hạn chế so với một số nước cùng nhập khẩu vào Hàn Quốc như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc...
Muốn phát triển chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp, tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cần phải có sự đầu tư hợp lý cho toàn chuỗi. Bài toán vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với tác nhân chính của chuỗi giá trị là doanh nghiệp và nông dân. Ông Trần Ngọc Tồn, Trưởng Văn phòng Đại diện khu vực Tây Nam bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), cho biết: "Thời gian tới, Agribank sẽ tiếp tục tập trung nguồn vốn để cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là chú trọng đầu tư vào các mô hình liên kết chuỗi giá trị. Agribank đặt ra mục tiêu đưa tỷ lệ cho vay nông nghiệp, nông thôn chiếm trên 75% dư nợ cho vay nền kinh tế và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp cùng nông dân là đối tượng phục vụ chính của ngân hàng. Agribank cam kết tiếp tục là ngân hàng chủ lực trong kết nối triển khai chương trình đầu tư cho vay vào các chuỗi liên kết sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, Agribank sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với các ngân hàng tham gia triển khai mô hình liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao".
Theo bà Nguyễn Thị Thúy Hằng, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Đấu thầu-Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhìn chung hội nhập luôn mang tính chất 2 mặt, một khi thị trường mở cửa theo TPP thì người tiêu dùng có lợi song đổi lại người nông dân trực tiếp sản xuất nông nghiệp sẽ thiệt hại. Do đó, nông dân cần liên kết với doanh nghiệp để sản xuất theo chuỗi giá trị. Các bên liên quan trong chuỗi giá trị phải cùng nhau vạch ra lộ trình liên kết lâu dài để đối phó với những tác động tiêu cực khi hội nhập. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và hàng hóa nông lâm thủy sản của Việt Nam phải tăng cường nâng cao năng suất lao động, phát triển lực lượng lao động tiên tiến phục vụ cho các ngành sản xuất. Cần đẩy nhanh chiến lược tái cơ cấu ngành nông lâm thủy sản của Việt Nam theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Về phía các doanh nghiệp cần chủ động nâng cao năng lực dự báo và phân tích thị trường, nâng cao khả năng vận dụng các cam kết và các biện pháp được áp dụng trong các Hiệp định thương mại tự do.