Huyết tương (plasma) thu được từ quá trình ly tâm máu. Sau khi ly tâm, máu sẽ phân tách thành 2 phần riêng biệt, là huyết tương và các tế bào máu. Sau đó, huyết tương sẽ được đem đi sấy phun để tạo thành bột huyết tương (Spray-dried plasma). Sấy phun là phương pháp sản xuất bột khô từ chất lỏng hoặc bùn bằng cách làm khô nhanh bằng khí nóng. Đây là phương pháp sấy ưa thích của nhiều vật liệu nhạy cảm với nhiệt như thực phẩm và dược phẩm.
Trong những năm gần đây, chúng được sử dụng rộng rãi trong thức ăn cho chăn nuôi. Bên cạnh các yếu tố về dinh dưỡng, bột huyết tương còn được biết đến với nhiều tác động tích cực đối với hệ thống miễn dịch, cải thiện đường ruột và tăng cường khả năng tiêu hóa các chất dinh dưỡng ở các loài gia súc.
Nhưng những ứng dụng làm thức ăn cho động vật thủy sản là rất ít, nguyên nhân là do giá thành quá cao so với các loại nguyên liệu cung cấp protein khác. Với những tác động tích cực mà bột huyết tương đã đem lại cho ngành chăn nuôi, nhóm nghiêm cứu của Eric De Muylder đã quyết định ứng dụng bột huyết tương vào khẩu phần ăn của tôm thẻ trân trắng nhằm tăng cường sức kháng cũng như nâng cao tốc độ tăng trưởng của tôm và đã đạt được nhiều kết quả tích cực ngoài mong đợi.
Trong nghiên cứu này, để đánh giá tác động của nhiệt có ảnh hưởng đến chức năng của các kháng thể có trong bột huyết tương hay không. Nhóm tác giả đã kiểm tra bằng cách thêm bột trực tiếp vào hỗn hợp nguyên liệu và trải qua quá trình xử lý nhiệt trong quá trình tạo viên (90-95°C) hoặc hạ nhiệt độ (20°C) để áo bột lên thức ăn viên.
Bột huyết tương (Spray-dried plasma) một loại nguyên liệu rất giàu protein và kháng thể (immunoglobulins). Ảnh minh họa.
Các thành phần chính trong công thức thức ăn ở các nghiệm thức bao gồm: Bột cá, bột mì, bột đậu nành, nấm men và bột huyết tương. Bột huyết tương được sử dụng có tên là Plasma 70P chứa 70% protein, một sản phẩm của công ty Sonac đến từ Hà Lan.
Nghiên cứu gồm có 5 nghiệm thức và được tiến hành trong 6 tuần. Mỗi nghiệm thức sẽ được lặp lại 4 lần, và sử dụng loại rỗ nhựa 60L cho mỗi nghiệm thức, tức sử dụng 20 rỗ nhựa cho toàn bộ nghiên cứu. Mỗi rỗ gồm 25 con tôm thẻ ở kích cỡ 1,7g. Toàn bộ số rỗ này sẽ được đặt trong một bể lớn và sử dụng công nghệ biofloc để duy trì chất lượng nước ổn định. Điều này sẽ giúp cho tôm ở các nghiệm thức được nuôi trong điều kiện môi trường nước như nhau, giúp cho việc đánh giá trở nên chính xác hơn.
Ở nghiệm thức đối chứng, bột cá được sử dụng là thành phần chính cho công thức thức ăn. Nghiệm thức thứ hai, sử dụng 2% bột huyết tương (Plasma 70P) thay thế 2% bột cá trong công thức thức ăn. Nghiệm thức thứ ba, trong 3 tuần đầu, sử dụng công thức thức ăn tương tự với nghiệm thức thức hai, và sử dụng công thức thức ăn tương tự nghiệm thức đối chứng cho 3 tuần tiếp theo.
Ở nghiệm thức thứ tư, cũng sẽ sử dụng 2% bột huyết tương thay thế 2% bột cá trong suốt 6 tuần, nhưng cách làm thức ăn viên có chút khác biệt, là bột huyết tương sẽ được áo lên viên thức ăn bằng cách pha bột với nước theo tỷ lệ 50:50, thay vì trộn chung với các nguyên liệu khác rồi ép thành viên như ở các nghiệm thức trước. Nghiệm thức thứ năm, sẽ cho ăn giống với nghiệm thức thứ tư trong 3 tuần đầu tiên, rồi 3 tuần tiếp theo sẽ cho ăn theo nghiệm thức đối chứng.
Tôm được cho ăn 4 lần trong ngày, với số lượng cho ăn của mỗi lần là 0,25g. Để đánh giá hiệu quả tiêu hóa thức ăn, phân tôm được thu thập 2 lần/ngày. Một lần là vào buổi sáng sau khi cho ăn và lần còn lại là vào buổi trưa sau khi cho ăn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tôm tăng trưởng tốt ở tất cả các nghiệm thức bổ sung bột huyết tương trong thức ăn. Thức ăn có bột huyết tương giúp tôm tiêu hóa và thấp thụ thức ăn tốt hơn, vì lượng phân thu được ít hơn.
Ở nghiệm thức tôm được cho ăn với phương pháp áo huyết tương lên viên thức ăn, cho thấy không có tác động đáng kể nào về tỷ lệ sống so với nghiệm thức ăn đối chứng. Nhưng Ở các nghiệm thức sử phương pháp trộn huyết tương với các nguyên liệu khác rồi ép viên, cho thấy tỷ lệ sống của tôm có sự cải thiện rõ rệt so với nghiệm thức đối chứng. Ngoài ra, việc đưa huyết tương vào chế độ ăn trong 3 hoặc 6 tuần đã làm tăng độ dày của thành ruột, qua đó góp phần tăng sức đề kháng cho tôm.
Thông qua nghiên cứu này, nhóm tác giả hy vọng có thể đưa đến cho người nuôi một giải pháp mới giúp tăng cường sức đề kháng cho tôm thay vì làm dụng thuốc kháng sinh trong nuôi tôm công nghiệp.
Nguồn: Spray-dried plasma protein in shrimp diets By Eric De Muylder, Lourens Heres and Carine van Vuure. Aquaculture Asia Pacific, Volume 15, Number 1 January/February 2019 MCI (P) 008/10/2018 ISBN 1793 -056.