Mô hình nuôi tôm thẻ kết hợp rong đỏ

Tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei (WLS) được nuôi kết hợp với rong đỏ Gracilaria corticate (RSW) trong mô hình không thay nước cùng với ánh sáng của đèn quỳnh quang đảm bảo cho sự phát triển của RSW.

Mô hình nuôi tôm thẻ kết hợp rong đỏ
Ảnh: Tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) và rong đỏ (G. corticata)

Giới thiệu

Một số loài rong tảo biển như Ulva, Porphyra, Gracilaria có khả năng làm giảm hàm lượng chất hữu cơ trong nước, qua đó giảm ô nhiễm và duy trì chất lượng nước ổn định. Rong biển hấp thu nitrogen và phosphorus trong nước cho sự phát triển của chúng và qua đó góp phần cải thiện chất lượng nước ao nuôi.

Nhiều nghiên cứu nuôi tôm kết hợp với tảo hay rong biển được tiến hành; tuy nhiên, kết quả của cho thấy hiệu quả mô hình nuôi kết hợp phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm: hàm lượng dinh dưỡng trong nước nuôi, loại mô hình nuôi (nuôi không thay nước, nuôi công nghệ biofloc, nuôi có bổ sung thay nước,…), dòng chảy, hàm lượng nitrogen và phosphorus trong nước.

Việc sử dụng rong tảo biển như lọc sinh học trong các mô hình nuôi thâm canh đã cho thấy hiệu quả thông qua việc tăng nâng suất đặc biệt được áp dụng với các mô hình nuôi cá hồi.

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của việc nuôi tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) kết hợp với rong đỏ (G. corticata) thông qua tỉ lệ sống, các chỉ tiêu tăng trưởng, và nâng xuất nuôi với các mật độ tôm và rong khác nhau trong điều kiện không thay nước.

Phương pháp nghiên cứu

Thí nghiệm được tiến hành với hai nhân tố bao gồm: 2 mật độ tôm WLS (25 và 50 tôm/m2) và 3 mật độ rong RSW (0, 200, và 400 g/m2).

Thí nghiệm bao gồm 8 nghiệm thức với 3 lần lặp lại được trình bày trong Bảng. WLS với trọng lượng ban đầu 5.82g/tôm được dùng cho thí nghiệm. Tôm được bố trí trong bể nhựa với (bán kín: 57cm và cao 100 cm), bể thí nghiệm với 750L nước biển. Bóng đèn quỳnh quang 40W được lắp vào mỗi bể nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ ánh sáng cho sự phát triển của rong. Ánh sáng được cung cấp theo chu kỳ ngày đêm.

Nghiệm thức

Rong đỏ (g/m2)

Mật độ tôm (cá thể/m2)

C1

200

25

C2

200

Không thả tôm, chỉ bổ sung thức ăn tôm mỗi ngày.

S1A1

0

25

S1A2

200

25

S1A3

400

25

S2A1

0

50

S2A2

200

50

S2A3

400

50

Kết quả nghiên cứu

Các chỉ tiêu chất lượng nước:

Sau 45 ngày nuôi: DO dao động trong khoảng 5,1 – 6,56 mg/L. Khoảng pH dao động thấp nhất và nhỏ nhất dao động từ 7,9 – 8,3 và 7,3 – 8,7 tương ứng với nghiệm thức S2A3 và S1A3. Kết quả thống kê cho thấy mật độ tôm có ảnh hưởng đến pH và DO; tuy nhiên, mật độ rong không ảnh hưởng đến các chỉ số này. 

Nồng độ cao nhất và thấp nhất của ammonium tổng số (27,7 ± 3 và 388,9 ± 19 µg/L), nitrite (4230 ± 137 và 11822 ± ± 305 µg/L), nitrate (44236 ± 749 và 92437 ± 2895 µg/L) và phosphate (2437 ± 24,2 và 6106 ± 156,8 µg/L) tương ứng với nghiệm thức S1A3 và S2A1. Kết quả cho thấy mật độ tôm và rong ảnh hưởng đến hàm lượng ammonia, nitrite, nitrate, và phosphate (P<0.05).

Các chỉ tiêu tăng trưởng của tôm: 

Tốc độ tăng trưởng (SGR) của tôm cao nhất là 1,97 %/ngày ở nghiệm thức S1A3 (25 WLS/m2 và 400g RSW/m2) và thấp nhất là 1,69%/ngày ở nghiệm thức (không bổ sung rong đỏ).

Kết quả cho thấy mật độ tôm và rong ảnh hưởng lên SGR, hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR), và tỉ lệ sống (SR) của tôm, tương tác tác động của mật độ tôm và rong đỏ lên tất cả các chỉ tiêu tăng trưởng của tôm (P<0.05). SR và tăng trọng (WG) cao nhất ở nghiệm thức S1A3 với 94,67 ± 1,3% và 129,9 ± 2,9% tương ứng, ngược lại SR (51,3 ± 1,3%) và WG (10,10 ± 3,1%) thấp nhất đối với tôm ở nghiệm thức S2A1. FCR thấp nhất ở nghiệm thức S1A3 và khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại (P<0.05).

Tăng trưởng của rong đỏ (G. corticate):

SGR của rong G. corticate ở nghiệm thức S1A2 (1,22 ± 0.07%/ngày) và S1A3 (1,11 ± 0,03%/ngày) là khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức khác (P<0.01) tuy nhiên khác biệt không có ý nghĩa giữa hai nghiệm thức (P>0.05). Ở nghiệm thức C2 (200g RSW/m2) cùng với bổ sung thức ăn tôm, rong biển bị chết hoàn toàn do lượng thức ăn dư thừa làm ô nhiễm nguồn nước cùng với sự phát triển của nấm.

Kết luận

Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả của việc bổ sung rong đỏ G. corticata nuôi kết hợp tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) với mật độ 25con/m2 và 400g rong/m2 được xem là tối ưu nhất.

Rong đỏ giúp tăng tỉ lệ sống của tôm thông qua việc rong hấp thu chất cặn bả trong môi trường nước nuôi làm sạch nước nuôi, qua đó giảm FCR cũng như kích thích tăng trưởng của tôm. Rong còn được xem như một chất nền nhân tạo giúp giảm được những tác động xấu do nuôi tôm với mật độ cao trong bể qua đó kích thích tăng trưởng của tôm. Ở nghiệm thức C1 được bố trí rong với tôm nhưng không bổ sung thức ăn, cho thấy sự phát triển của rong. Điều này cho thấy trong điều kiện bình thường trong hoạt động của tôm lượng chất thải thải ra cung cấp đủ cho sự phát triển của rong.

Báo cáo đăng trên: Onlinelibrary

Đăng ngày 03/11/2017
HUỲNH NHƯ Lược dịch
Kỹ thuật

Chuyển giao cá tra bố mẹ và nâng cao chất lượng giống

Vừa qua, Tép Bạc phản ánh thông tin từ Cục Thủy sản và Hiệp hội Cá tra Việt Nam về chất lượng giống cá tra thấp, hao hụt đến 95% trong ương dưỡng và khi nuôi thương phẩm cũng hao hụt lớn, nhiều bạn đọc muốn biết thêm công tác giống đang thực hiện. Sau đây xin cung cấp thông tin từ Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II (Viện 2)

Cá tra giống
• 09:51 13/12/2024

Tìm hiểu cách trao đổi khí của tôm

Tôm là loài động vật thủy sinh thuộc lớp giáp xác, có cơ chế trao đổi khí phức tạp và thích nghi tốt với môi trường nước. Quá trình trao đổi khí của tôm diễn ra thông qua các cấu trúc và cơ chế đặc biệt giúp chúng lấy oxy từ nước và thải khí carbon dioxide.

Tôm thẻ
• 09:43 06/12/2024

Các yếu tố quan trọng cần biết khi cho tôm ăn

Cho tôm ăn là một công đoạn rất quan trọng trong quá trình nuôi, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tốc độ phát triển, và hiệu quả kinh tế của ao nuôi. Để đảm bảo tôm phát triển tốt và hạn chế các vấn đề về môi trường ao nuôi, người nuôi cần nắm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và cách cho tôm ăn.

Thức ăn tôm
• 10:04 03/12/2024

Sử dụng men vi sinh để trị bệnh cho tôm

Một trong những giải pháp đang ngày càng được nhiều người nuôi tôm áp dụng để kiểm soát và điều trị bệnh chính là sử dụng men vi sinh. Men vi sinh không chỉ giúp cải thiện chất lượng nước mà còn hỗ trợ tôm khỏe mạnh, nâng cao sức đề kháng và phòng ngừa các bệnh thường gặp. Việc áp dụng men vi sinh đúng cách có thể mang lại hiệu quả lâu dài, giúp người nuôi tôm bảo vệ đàn tôm khỏi bệnh tật và nâng cao năng suất nuôi trồng.

Men vi sinh
• 11:38 02/12/2024

Hướng đi mới trong nuôi trồng thủy sản: Mô hình Aquaponics

Mô hình Aquaponics đang được xem là một trong những giải pháp đột phá cho ngành nuôi trồng thủy sản trong thời kỳ hiện đại. Không chỉ kết hợp hiệu quả giữa nuôi thủy sản và trồng cây trong hệ thống tuần hoàn khép kín, mô hình này còn tối ưu hóa tài nguyên, mang lại lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường.

Mô hình Aquaponics
• 05:35 17/12/2024

Không nên tin tưởng sản phẩm quảng cáo "trị dứt điểm EHP"

Hiện nay, nhiều người nuôi tôm đang đối mặt với những lời quảng cáo đầy hứa hẹn về các sản phẩm “trị dứt điểm EHP”.

EHP trên tôm
• 05:35 17/12/2024

Bình Định sửa đổi, bổ sung một số tiêu chí đặc thù và quy trình xét duyệt hồ sơ

Ngày 10/12/2024, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 84/2024/QĐ-UBND về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định tiêu chí đặc thù và quy trình xét duyệt hồ sơ

Tàu cá
• 05:35 17/12/2024

Lịch mùa vụ thả giống nuôi tôm nước lợ năm 2025

Vừa qua, Cục Thủy sản đã hướng dẫn khung lịch mùa vụ thả giống nuôi tôm nước lợ và một số nội dung quản lý, tổ chức sản xuất nuôi tôm nước lợ năm 2025 cụ thể như sau:

Thả giống
• 05:35 17/12/2024

Hệ vi sinh trong ao nuôi

Hệ vi sinh trong ao nuôi đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển và sức khỏe của tôm, cũng như khả năng quản lý chất lượng nước. Hiểu và quản lý tốt hệ vi sinh không chỉ giúp người nuôi kiểm soát môi trường ao hiệu quả, mà còn giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, nâng cao năng suất và chất lượng tôm.

Tạt vi sinh
• 05:35 17/12/2024
Some text some message..