Đến khu hòn Khe Châu, thị trấn Cô Tô, chúng tôi ngỡ ngàng trước quy mô nuôi hải sâm của anh Lâm Văn Giang, một trong những người tiên phong trong lĩnh vực nuôi hải sâm trên địa bàn tỉnh. Nuôi thủy sản từ rất lâu, nhưng vài năm trở lại đây anh Giang mới bắt đầu nuôi hải sâm. Do chưa mua được giống ở các trại sản xuất tập trung nên việc thả nuôi chủ yếu theo hình thức thu mua con giống từ việc khai thác tự nhiên của người dân. Từ năm 2008, với 20ha mặt nước, mỗi vụ nuôi gia đình anh thả bình quân từ 3 - 4 tấn hải sâm giống, chủ yếu là hải sâm đen và một lượng nhỏ hải sâm cát. Hải sâm thường được thu hoạch vào khoảng tháng 7, 8 hàng năm, đây là lúc thân của hải sâm dày hơn, bình quân đạt 4 con/kg, nếu khai thác vào thời điểm khác thì hải sâm mỏng hơn, chỉ đạt kích cỡ bình quân 7 con/kg. Vụ nuôi năm nay, do nguồn giống hạn chế nên anh Giang chỉ thả nuôi gần 3 tấn giống, ước chừng sẽ thu hoạch được vài tấn hải sâm thương phẩm, trừ chi phí về giống và các chi phí khác cũng cho thu nhập vài trăm triệu đồng. Đặc biệt, hải sâm cát là hải sản có giá trị kinh tế khá cao. Giá thu mua loại hải sâm ổn định ở mức trên 100 - 200 USD/kg khô. Hiện nay, nhu cầu thị trường trong nước cũng như nước ngoài đối với loại hải sản này rất lớn...
Anh Giang cho biết thêm, nuôi hải sâm trên biển không khó, quan trọng nhất vẫn là phải làm sao bảo đảm môi trường trong sạch. Thức ăn của hải sâm là các sinh vật nhỏ như tảo, các chất mùn bã hữu cơ, nên hải sâm được ví như các “môi trường viên của biển”. Khi trời mưa bão, biển động, hải sâm ẩn vào các hốc đá, chờ đến khi thời tiết thuận lợi mới bắt đầu bơi đi kiếm ăn. Một trong những cách chúng bắt mồi là nằm yên một chỗ, các xúc tu mở ra và bắt những sinh vật nhỏ trôi theo dòng nước biển. Có thể tìm thấy chúng với số lượng lớn ở cạnh các trang trại nuôi cá biển. Nói là kỹ thuật nuôi đơn giản, song do hải sâm là loài hải sản “khó tính” với môi trường nên việc chọn môi trường nuôi phù hợp là hết sức cần thiết. Những khu vực có rạn san hô cùng với hệ thực vật phong phú và đáy cát, bùn là những địa điểm lý tưởng cho hải sâm sinh sống. Ngoài ra, các eo, vịnh, ít bị tác động của sóng gió, ít bị ảnh hưởng trực tiếp của nước ngọt đổ vào cũng là môi trường rất thuận lợi để thả nuôi hải sâm.
Thời gian qua do hải sâm có giá trị kinh tế cao, lại sống ở vùng nước nông, di chuyển chậm nên bị khai thác có nguy cơ cạn kiệt. Để bảo vệ nguồn lợi hải sản quý giá này và từng bước phát triển nghề nuôi hải sâm, thời gian qua, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã đưa vào nuôi một số mô hình thử nghiệm tại một số địa phương trên địa bàn. Năm 2010, Trung tâm đã trình diễn và chuyển giao kỹ thuật nuôi hải sâm đen bằng nguồn giống thu gom tự nhiên tại khu Hang Trai, Vịnh Hạ Long với hình thức nuôi bãi (hay còn gọi nuôi đáy) cho ngư dân làng chài Cửa Vạn, Hùng Thắng, thành phố Hạ Long. Mô hình này bước đầu đã cho hiệu quả cao, tuy nhiên việc nhân rộng mô hình vẫn chưa thực hiện được. Tháng 5 vừa qua, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh đã triển khai nhân rộng mô hình nuôi hải sâm thương phẩm bằng nguồn giống thu gom tự nhiên quy mô 0,3ha, mật độ thả 5 con/m2, tại hộ anh Lâm Văn Giang, thị trấn Cô Tô. Qua hơn một tháng thả nuôi, hiện nay hải sâm sinh trưởng và phát triển tốt, dự kiến mô hình sẽ được nghiệm thu, tổng kết trong tháng 12.2013.
Phó giám đốc Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Thiều Văn Thành cho biết, điểm nổi bật của việc nuôi hải sâm là môi trường nuôi phải bảo đảm sạch tuyệt đối cùng với nguồn giống được thu gom từ tự nhiên để tạo ra sản phẩm hải sâm an toàn, vệ sinh và chất lượng. Thời gian thả giống thích hợp nhất là vào sáng sớm, lúc thủy triều xuống thấp. Cũng chính vì điều kiện nuôi sạch như vậy nên khi việc nuôi hải sâm được nhân rộng sẽ góp phần cải thiện môi trường nước ở các vùng đã bị tác động của việc khai thác, nuôi trồng thủy sản.
Để người dân yên tâm nuôi trồng hải sâm, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh cũng thường xuyên cập nhật thông tin, đồng thời có những khuyến cáo cần thiết đối với loại hải sản này, chẳng hạn, do hải sâm mới thả nuôi có kích cỡ nhỏ, sức đề kháng yếu, di chuyển chậm nên người nuôi cần chú ý thường xuyên kiểm tra để vớt dọn rong rêu, bắt các loài địch hại như ốc, cua, tôm; định kỳ hàng tháng làm vệ sinh đăng lưới, cọc; kiểm tra tốc độ tăng trưởng của hải sâm, kiểm tra một số yếu tố môi trường nước: như nhiệt độ, pH, độ mặn... khi môi trường có biến động để có sự điều chỉnh thích hợp...Phát triển nghề nuôi hải sâm không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao mà còn góp phần bảo vệ môi trường, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho ngư dân vùng biển đảo. Để nghề nuôi hải sâm được nhân rộng và phát triển bền vững, thiết nghĩ, các ngành chức năng tại địa phương cần tạo điều kiện hỗ trợ nguồn vốn cũng như các cơ chế chính sách và hướng dẫn kỹ thuật cho người nuôi./.