Sau khi rời ghế nhà trường, chứng kiến cảnh bao thanh niên cùng trang lứa không có việc làm ổn định, thu nhập thấp nên anh Thủy quyết “xuất ngoại” làm kinh tế.
Trong những năm lăn lộn ở xứ người, anh đã làm rất nhiều nghề nhưng kết quả không được như mong muốn. Vì vậy, năm 2012, anh trở về nước và quyết định sẽ lập nghiệp trên chính quê hương mình.
Nuôi tôm công nghệ cao, lãi tiền tỷ
Với đồng vốn có được từ đi lao động ở nước ngoài, anh đã bắt tay vào đầu tư xây dựng cơ sở nuôi tôm. Trên diện tích 1,5 ha của gia đình, anh chia thành 4 ao để nuôi tôm thẻ chân trắng công nghiệp có lót bạt chống thấm ở đáy, đắp bờ xung quanh bằng bê tông và đầu tư trang thiết bị với hy vọng sẽ thành công.
Nhưng những năm đầu do ảnh hưởng của ngập lụt, cộng với thời tiết thay đổi bất thường, môi trường ô nhiễm, dịch bệnh xảy ra thường xuyên, trong khi bản thân anh chưa có nhiều kinh nghiệm trong nuôi tôm nên cho hiệu quả kinh tế không ổn định.
Không chịu khuất phục trước khó khăn, đầu năm 2019, anh quyết định đầu tư nâng cấp, sửa chữa lại cơ sở nuôi theo mô hình nuôi tôm siêu thâm canh 3 giai đoạn tuần hoàn khép kín bằng cách nuôi tôm ít thay nước, sử dụng nhiều chế phẩm vi sinh thay cho kháng sinh. Hệ thống ao nuôi được thiết kế gồm: bể ương tôm giai đoạn 1, ao ương giai đoạn 2 và ao nuôi thương phẩm.
Ngoài ra, còn có 1 hệ thống xử lý nước đầu vào và 1 hệ thống xử lý chất thải, nước thải. Bể ương tôm giai đoạn 1 (diện tích 500m2 chia làm 10 bể) là bể xi măng được đặt trong nhà có mái che, ao ương giai đoạn 2 (diện tích 1.000m2) được che phủ bằng màng lưới và ao nuôi thương phẩm giai đoạn 3 gồm 3 ao (mỗi ao có diện tích 3.000m2) là ao đáy đất được đắp bờ xung quanh bằng bê tông.
Nhờ đầu tư bài bản như trên, lại áp dụng nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật nên từ năm 2019 đến nay, năm nào anh Thủy cũng thành công. Mỗi năm nuôi 3 vụ, sản lượng bình quân đạt từ 30 - 40 tấn/ năm, trừ chi phí anh thu lợi nhuận 2 - 3 tỷ đồng/ năm.
Theo anh Thủy, đối với quy trình nuôi tôm thâm canh 3 giai đoạn sẽ thả nuôi mật độ vừa phải so với cơ sở khác. Giai đoạn 1 ương với mật độ 1.000 con/m2 thời gian 25 ngày, tôm đạt kích cỡ từ 500 - 600 con/kg. Chuyển sang ương giai đoạn 2, mật độ tôm giống từ 400 - 450 con/m2, thời gian nuôi 25 ngày, khi tôm đạt kích cỡ 160 - 180 con/kg thì chuyển sang nuôi giai đoạn 3.
Tại ao nuôi thương phẩm, tôm được nuôi với mật độ thưa từ 70 - 75 con/m2. Trong thời điểm này tôm phát triển nhanh, thời gian nuôi 30 ngày, khi thu hoạch đạt 30 - 40 con/kg.
Trong quá trình nuôi cần chú ý xử lý nước đầu vào một cách triệt để nhằm tiêu diệt mầm bệnh. Tôm giống sau khi được chuyển về môi trường mới từ các trại tôm giống dễ bị sốc nên cần chuẩn bị kỹ trước khi thả giống, quản lý chỉ số môi trường nước luôn phải nằm trong mức cho phép.
Khi cho tôm ăn phải đảm bảo lượng vừa đủ, tránh cho ăn quá nhiều làm tôm bị ảnh hưởng đến sức khỏe gan, tụy, ruột và bị bệnh sẽ điều trị hết sức khó khăn.
Với quy trình 3 giai đoạn ương và nuôi như trên cộng với việc áp dụng tốt quy trình kỹ thuật nên chỉ số môi trường nước nuôi luôn luôn ổn định trong mức cho phép, hạn chế được dịch bệnh, giúp cho tôm nuôi nhanh lớn, tỷ lệ sống cao, có thể nuôi quay vòng được nhiều vụ trong năm.
Nuôi cua biển trong hộp
Năm 2023, sau thành công liên tiếp của các vụ tôm, nhận thấy có một số cơ sở nuôi cua biển trong hộp nhựa thành công nên anh Thủy đã nảy ra ý tưởng nuôi thử nghiệm theo hình thức này. Anh đã triển khai nuôi 300 con cua trong hộp nhựa có sử dụng hệ thống lọc nước tuần hoàn.
Giống cua được anh mua lại từ những người dân khai thác được tại các vùng nước lợ trên địa bàn lân cận với kích cỡ 5 – 10 con/kg. Cua giống là những con khỏe mạnh không mang mầm bệnh. Mỗi con cua sẽ được nuôi riêng trong một hộp nhỏ để tránh ăn thịt lẫn nhau, tránh nhiễm bệnh chéo và dễ quản lý.
Hộp nuôi cua được xếp thành tầng khác nhau, đánh số thứ tự và ghi chép nhật ký hàng ngày để biết được sức khỏe và tình trạng phát triển của cua. Nước nuôi được sử dụng theo nguyên lý tuần hoàn, được kiểm soát chặt chẽ về các chỉ số như nhiệt độ, độ mặn, pH, kiểm, oxy,...
Nước thải từ các hộp nhựa nuôi cua có chứa thức ăn thừa của cua và cặn bẩn sẽ đi qua hệ thống lọc thô, sau đó ra bể vi sinh có chứa hạt kaldnes (hạt kaldnes là nơi cho vi sinh trú ngụ và xử lý chất thải của cua). Sau đó nước được chuyển qua xử lý tảo và vi khuẩn, nấm... bằng đèn tia UV, rồi tiếp tục cung cấp trở lại cho các hộp nuôi cua.
Anh Thủy đang kiểm tra cua biển nuôi trong hộp nhựa trước lúc xuất bán
Anh cho biết, không giống như mô hình nuôi cua truyền thống, nuôi cua trong hộp nhựa người nuôi phải thường xuyên kiểm tra các thông số về chất lượng nguồn nước, sức khoẻ, khả năng sử dụng thức ăn của cua để kịp thời điều chỉnh, đảm bảo môi trường sống tốt nhất cho cua.
Thức ăn cung cấp cho cua chủ yếu là cá rô phi, sò biển, ốc bươu vàng,… Thức ăn được thả trực tiếp vào trong hộp, mỗi ngày cua sẽ ăn 2 bữa và lượng thức ăn thường được cho nhiều hơn vào ban đêm vì chúng có tập tính hoạt động về đêm. Nếu được cho ăn đầy đủ, môi trường nước đảm bảo thì sau 15 - 20 ngày cua sẽ lột xác và tăng trưởng 50 - 80% so với trọng lượng cơ thể ban đầu.
Anh Thủy dự kiến: với thời gian nuôi 2 tháng, tiến hành thu hoạch khi cua đạt kích cỡ 350 – 400 g/kg, tỷ lệ sống đạt 80% và với giá bán cua thương phẩm ra thị trường là 600.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, lợi nhuận ước tính đạt 30 triệu đồng. Anh Thủy dự định nếu vụ cua nay thắng lợi, anh sẽ mở rộng quy mô gấp 3 lần so với hiện tại.
Có thể thấy, thành công từ mô hình nuôi tôm 3 giai đoạn và nuôi cua trong hộp nhựa tại cơ sở nuôi của anh Nguyễn Xuân Thủy đã góp phần khẳng định sự mạnh dạn trong đổi mới sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nghề nuôi trồng thủy sản là hết sức đúng đắn.
Trong tương lai, anh Thủy đang có ý định mở rộng cơ sở nuôi theo hướng ngày càng hiện đại hơn. Hi vọng đây sẽ là nơi để các hộ nuôi trong vùng và địa phương khác đến tham quan, học tập kinh nghiệm và đẩy nhanh việc ứng dụng khoa học kĩ thuật vào thực tiển sản xuất.