Qua đánh giá bước đầu cho thấy các mô hình này đều cho hiệu quả vượt trội, đảm bảo an toàn dịch bệnh, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất.
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và PTNT, tính đến cuối năm 2018, tổng diện tích đất nuôi trồng thủy sản mặn, lợ toàn tỉnh đạt 1.116 ha; trong đó diện tích nuôi tôm đạt 933 ha bao gồm tôm sú 450 ha và tôm thẻ chân trắng 483 ha; sản lượng đạt 4.532 tấn; giá trị sản xuất ước đạt trên 679,8 tỉ đồng. Nuôi tôm đã trở thành thế mạnh và là một trong 2 con nuôi chủ lực tạo sản phẩm có lợi thế cạnh tranh của tỉnh, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Bên cạnh đó, nhằm từng bước đổi mới việc nuôi tôm theo hướng ứng dụng công nghệ cao, có hiệu quả và mang tính bền vững, năm 2018 Sở Nông nghiệp và PTNT và các địa phương đã triển khai 10 mô hình nuôi tôm tại các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng và thành phố Đông Hà như mô hình nuôi tôm 2 giai đoạn ứng dụng công nghệ Biofloc, nuôi tôm thẻ chân trắng theo quy trình VietGAP, nuôi thâm canh tôm thẻ chân trắng sử dụng chế phẩm sinh học đã mang lại hiệu quả cao, sản lượng bình quân đạt từ 11 - 25 tấn/ha, lợi nhuận bình quân từ 500 triệu đến hơn 1 tỉ đồng.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Võ Văn Hưng cho biết: “Theo kế hoạch, năm 2019 ngành Nông nghiệp dự kiến giữ ổn định diện tích nuôi tôm toàn tỉnh với 933 ha, sản lượng đạt 5.000 tấn, mang lại giá trị khoảng 750 tỉ đồng. Cụ thể, duy trì diện tích 450 ha nuôi tôm sú tại các vùng ven sông Hiền Lương và ven sông Hiếu thuộc các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong và thành phố Đông Hà; duy trì các vùng nuôi tôm thẻ chân trắng đã sản xuất ổn định tại các vùng cát bãi ngang ven biển thuộc các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Triệu Phong và Hải Lăng; đồng thời đẩy mạnh phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng cát bãi ngang ven biển theo quy hoạch, tạo vùng sản xuất nguyên liệu tập trung phục vụ cho thị trường tiêu thụ nội địa và chế biến xuất khẩu. Còn với các vùng nuôi có điều kiện cơ sở hạ tầng không đảm bảo nuôi tôm theo hình thức thâm canh và bán thâm canh sẽ chuyển đổi sang nuôi các đối tượng như cá đối mục, cá chẽm, cá dìa... hoặc nuôi xen ghép tôm- cua, tôm - cua - cá; tôm - cá - rong câu... theo hình thức quảng canh cải tiến. Theo ông Võ Văn Hưng, ngành Nông nghiệp cũng đề ra kế hoạch cụ thể đến năm 2020 tổng diện tích nuôi tôm nước lợ toàn tỉnh đạt 1.500 ha; trong đó diện tích nuôi tôm sú là 500 ha, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng 1.000 ha; sản lượng đạt 6.800 tấn; giá trị sản xuất tôm đạt 1.000 tỉ đồng. Giai đoạn 2020 - 2025 sẽ hình thành một số vùng sản xuất tôm công nghệ cao; vùng nuôi tôm hữu cơ được áp dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, giá trị sản phẩm dựa trên các hình thức tổ chức sản xuất hợp lí; hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ kĩ thuật được đầu tư đồng bộ; nâng tổng diện tích nuôi tôm nước lợ đến năm 2025 đạt 1.500 ha; sản lượng đạt 8.800 tấn; giá trị sản xuất đạt 1.500 tỉ đồng.
Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu hết sức khả quan, tuy nhiên thực trạng cho thấy nghề nuôi tôm trên địa bàn tỉnh vẫn đang còn tồn tại một số vấn đề như chưa chủ động sản xuất và cung cấp đủ nguồn giống cho người nuôi tôm, việc kiểm soát chất lượng con giống từ bên ngoài đưa vào nuôi chưa được chặt chẽ. Để đáp ứng với diện tích nuôi tôm toàn tỉnh, nhu cầu giống hằng năm cần có khoảng 100 triệu con giống tôm sú và khoảng 1,5 tỉ con giống tôm thẻ chân trắng. Tuy nhiên, hiện nay Trại sản xuất giống thủy sản nước mặn, lợ Cửa Tùng mới tổ chức sản xuất, cung ứng được khoảng 5 triệu con giống tôm sú, đáp ứng khoảng 5% nhu cầu, 95% số giống còn lại đối với tôm sú và toàn bộ tôm giống thẻ chân trắng đều được nhập từ các tỉnh phía Nam như Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận... Đây là khó khăn chưa được khắc phục trong chủ động nguồn tôm giống cho sản xuất. Bên cạnh đó, việc xử lí môi trường nước cho nuôi tôm chưa được chú trọng. Tính cộng đồng trong nuôi tôm và ý thức của người nuôi tôm chưa cao, đặc biệt là trong việc xử lí dịch bệnh như giấu dịch, xả thải nguồn nước nhiễm bệnh ra môi trường gây thiệt hại cho người nuôi xung quanh... Việc kiểm soát dịch bệnh trên tôm nuôi và khi phát hiện ra tôm bị bệnh thì việc chữa bệnh gặp nhiều khó khăn, tốn kém. Việc áp dụng khoa học công nghệ vào nuôi tôm đang gặp nhiều hạn chế, phương thức nuôi tôm đang còn nhỏ lẻ manh mún, đặc biệt là nguồn lực kinh tế của các hộ nuôi tôm đang còn hạn chế. Chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa người nuôi và đơn vị tiêu thụ sản phẩm, người dân tự tìm nguồn để bán, phụ thuộc rất lớn vào thương lái, dẫn đến giá trị nuôi thủy sản bị ảnh hưởng.
Do vậy, để đạt được các mục tiêu đã đề ra, ngành Nông nghiệp đã đề ra những giải pháp cụ thể như nâng cao năng lực hoạt động của Trung tâm sản xuất giống thủy sản thông qua việc đầu tư đổi mới quy trình sản xuất, liên kết với các doanh nghiệp nhằm chủ động về cung ứng nguồn giống và kiểm soát tốt dịch bệnh. Tăng cường công tác quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng, chống dịch bệnh cho các vùng nuôi. Hình thành các tổ hợp tác, tổ cộng đồng nuôi tôm có trách nhiệm, câu lạc bộ những người nuôi tôm trong vùng. Nhân rộng các mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao đã được triển khai trên địa bàn tỉnh như nuôi tôm 2 giai đoạn, nuôi tôm 2 giai đoạn theo công nghệ Biofloc, nuôi tôm thẻ chân trắng trong nhà kính, nhà lưới. Chuyển đổi cơ cấu nuôi ở các vùng nuôi chuyên tôm thường xuyên bị dịch bệnh sang nuôi tôm sinh thái hoặc nuôi hình thức xen ghép. Xây dựng các vùng nuôi tôm theo tiêu chuẩn VietGAP; nuôi theo hướng an toàn sinh học để sản phẩm tôm thương phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Đầu tư phát triển chế biến công nghệ chế biến sau thu hoạch. “Hiện nay chúng tôi đang mời gọi, thu hút một số doanh nghiệp có tiềm lực, kinh nghiệm đầu tư nuôi tôm công nghệ cao như các tập đoàn Camimex, Việt Úc, Đắc Lộc, C.P… trong sản xuất giống và nuôi tôm thương phẩm. Đồng thời đẩy mạnh việc tập huấn chuyển giao công nghệ đến người nuôi tôm cũng như đào tạo nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực này nhằm đáp ứng yêu cầu trong thời gian tới”, ông Võ Văn Hưng khẳng định.