Sá sùng cơ hội cho đối tượng nuôi mới

Sá sùng còn gọi là sâm đất, địa sâm, giun biển, sá trùng, đồn đột… Thực phẩm từ con này được xếp vào hạng hàng hóa cho giới thượng lưu, giá dao động từ 4,5 - 5 triệu đồng/kg. Chủ yếu khai thác từ tự nhiên.

Sá sùng
Ở Việt Nam, sá sùng được biết đến là loài hải sản quý hiếm. Ảnh: mia.vn

Sá Sùng (Phascolosoma esculenta) thuộc lớp sâu đất (Sipunculoidea) là nhóm động vật biển, sống chui rúc trong bùn cát, con trưởng thành dài khoảng 15 - 25cm, đường kính 1-1,5 cm, màu hồng tím đến hồng trắng nhạt. Sá Sùng có cơ thể hình giun, là loài động vật không xương sống, không phân đốt, phần đầu nhỏ hơn được gọi là vòi, lỗ miệng ở tận cùng vòi, lỗ hậu môn nằm trên mặt lưng gần gốc vòi. Thành cơ thể sá sùng có lớp biểu mô giàu tuyến đa bào ở ngoài cùng và bao cơ gồm 3 lớp: cơ vòng, cơ xiên và cơ dọc. Biểu mô thể xoang lát mật trong giới hạn một thề xoang rộng.

Sá sùng được tìm thấy ở các vùng triều có nền đáy cát hoặc cát bùn. Sá sùng đóng vai trò quan trọng trong quá trình xáo trộn sinh học trầm tích ở các vùng bãi triều, đất ngập nước ven biển. Sá sùng là một trong những tài nguyên biển quý, tương tự như các loài sinh vật có mức độ dinh dưỡng cao như cá, cua, sao biển và hải quỳ.

Ở Việt Nam, sá sùng được biết đến là loài hải sản quý hiếm, có giá trị thương mại lớn trong ngành công nghiệp thực phẩm và xuất nhập khẩu, đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân các địa phương ven biển.

Hiện nay, sá sùng đã được Cục sở hữu trí tuệ xác lập hồ sơ danh mục sản phẩm được chỉ dẫn nguồn gốc địa lý. Tuy nhiên, nguồn lợi sá sùng đang bị suy giảm mạnh bởi các hoạt động khai thác không hợp lý, chặt phá rừng ngập mặn, ô nhiễm môi trường, chuyển đổi mục đích sử dụng đất và biến đổi điều kiện địa hoá sinh thái. 

Sá sùngSá sùng giá trị thương mại lớn trong ngành công nghiệp thực phẩm và xuất nhập khẩu. Ảnh: vietnam-destinations.com

Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về sá sùng, nhưng hầu hết các nghiên cứu tập trung làm sáng tỏ đặc điểm hình thái sinh học, sinh trưởng, phân loại học, ảnh hưởng của biến đổi sinh cảnh và ô nhiễm môi trường đến đời sống của sá sùng, mà chưa có nghiên cứu về đặc điểm địa hóa sinh thái, cũng như nguồn thức ăn và bậc dinh dưỡng của sá sùng. Như theo một đánh giá, sá sùng ở ven biên đảo Quan Lạn, Quảng Ninh sinh sông và phát triển ở những vùng có đặc điếm địa chất môi trường đặc biệt, giàu chất dinh dường, yên tĩnh, ít hợp chất hữu cơ, có Eh 100 - 150mV (môi trường nước) và 80 - 150mV (môi trường trầm tích đáy tầng mặt); pH vào khoảng 7,5 - 8,2. 

Ngoài ra, một khảo xác cho thấy các nguồn vật chất hữu cơ chính tại khu vực rừng ngập mặn Đồng Rui gồm lá cây ngập mặn, thực vật phù du và vi tảo bám đáy. Giá trị δ 13C và δ 15N của các nguồn vật chất hữu cơ lần lượt dao động trong các khoảng từ -28,78 đến - 22,21‰ và 3,1 đến 4,5‰.

Trong đó, giá trị δ 13C của lá cây ngập mặn, thực vật phù du và vi tảo bám đáy lần lượt là -28,78‰, -22,21‰ và 23,01‰. Giá trị δ 15N của lá cây ngập mặn, thực vật phù du và vi tảo bám đáy lần lượt là 4,5‰, 3,9 ‰ và 4,1‰ phù hợp cho sa sùng tăng trưởng và phát triển. Sá sùng sống trong môi trường trầm tích có tính khử mạnh, giá trị Eh dao động trong khoảng từ -263,33 mV đến 17,67 mV. Thành phần trầm tích tầng mặt bao gồm cát hạt mịn (>63 μm), bột (4- 63 μm), sét (<4 μm) và có xu hướng giảm dần từ bãi triều vào trong rừng ngập mặn. Hàm lượng trầm tích bột và sét chiếm tỉ lệ cao ở phía trong rừng ngập mặn, lần lượt là 43,3% và 13,6% trong khi hàm lượng trầm tích cát chiếm tỉ lệ cao (82,47%) tại bãi triều.

Như vậy, môi trường sống của sá sùng chủ yếu là bãi triều có hàm lượng cát cao. Hàm lượng OM, TOC, TN, giá trị δ13C và δ 15N lần lượt biến đổi trong khoảng từ 1,39 và 18,82%; 1,74 và 4,18%; 0,01 và 0,37%; -27,31 và -22,38‰; 0,15 và 8,18‰. Các nguồn thức ăn của sá sùng bao gồm lá cây ngập mặn, trầm tích, vi tảo bám đáy và thực vật phù du. Giá trị δ13C của sá sùng dao động trong khoảng từ -16,61 và -14,81‰ xấp xỉ giá trị δ13C của thực vật phù du (-22,21 δ 0,64‰) và vi tảo bám đáy bãi triều (-22,31 δ 0,1‰), chứng tỏ rằng nguồn gốc thức ăn của sá sùng chủ yếu từ thực vật phù du và vi tảo bám đáy bãi triều. Giá trị δ15N và bậc dinh dưỡng của sá sùng dao động trong khoảng từ 6,36 đến 9,85‰ và 1,72 đến 2,75. Sự biến đổi giá trị đồng vị bền theo kích thước chứng tỏ rằng sá sùng càng trưởng thành thì nguồn thức ăn càng phong phú và bậc dinh dưỡng càng tăng. 

Từ những phát hiện trên thì việc nuôi sá sùng không còn khó, tuy nhiên cần có những đánh giá sâu hơn và tìm hiểu về đặc điểm sinh sản của chúng để có thể chủ động nuôi đối tượng này. Nuôi trồng sá sùng thành một nguồn lợi hải sản có giá trị kinh tế cao và có thể áp dụng ở nhiều địa phương có đại chất tương tự.

Đăng ngày 29/01/2024
Hồng Huyền @hong-huyen
Nguyên liệu
Bình luận
avatar

Nguồn gốc Astaxanthin trong chuỗi thức ăn

Các nguồn astaxanthin tổng hợp và tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến xu hướng của ngành, gây ra một làn sóng trên thị trường dược phẩm dinh dưỡng thế giới về sản phẩm dạng viên nang.

Astaxanthin
• 09:48 10/09/2024

Liệu giá có giảm khi nguyên liệu không còn phụ thuộc vào thị trường nước ngoài?

Một trong những thách thức lớn mà ngành này phải đối mặt là chi phí thức ăn, chiếm đến 60-70% tổng chi phí sản xuất. Giá thức ăn thủy sản không ngừng gia tăng trong những năm gần đây, một phần do sự biến động của giá nguyên liệu trên thị trường quốc tế. Với thực trạng này, câu hỏi đặt ra là liệu giá thức ăn có giảm khi nguyên liệu sản xuất không còn phụ thuộc vào thị trường nước ngoài?

Thức ăn công nghiệp
• 09:27 10/09/2024

Công thức sử dụng một số thảo dược kháng bệnh cho tôm

Sử dụng chiết xuất thảo dược để tăng cường miễn dịch và kiểm soát bệnh cho tôm nuôi được biết đến từ lâu, và hai năm qua các chuyên gia ở Trường Thủy sản thuộc Trường Đại học Cần Thơ thực hiện chương trình Đổi mới sáng tạo tôm Mekong tập trung nghiên cứu đưa ra một số công thức cụ thể.

Tôm thẻ
• 12:02 09/09/2024

Peru: Sản lượng bột cá, dầu cá toàn cầu tăng trong nửa đầu năm 2024

Trong nửa đầu năm 2024, sản lượng bột cá và dầu cá toàn cầu đã có sự gia tăng đáng kể, nhờ vào những hoạt động đánh bắt thành công tại Peru — một trong những quốc gia sản xuất lớn nhất thế giới trong ngành này.

Bắt cá
• 15:35 28/08/2024

Liệu pháp kháng vi-rút đầy hứa hẹn chống lại vi-rút đốm trắng

Coumarin, có trong tự nhiên ở nhiều loại thực vật và nổi tiếng với nhiều tác dụng sinh học đa dạng, được biết đến như những tác nhân cải tiến có ái lực và tính đặc hiệu đối với các mục tiêu phân tử khác nhau trong hoạt động kháng vi-rút (Hu et al., 2024, Qin et al., 2020).

Tôm thẻ chân trắng
• 02:21 13/09/2024

Nuôi tôm an toàn sinh học với chuỗi giá trị khép kín và không kháng sinh

Tập đoàn Việt Úc đang nỗ lực cải thiện chất lượng tôm Việt Nam bằng cách tránh sử dụng kháng sinh. Nghiên cứu của họ đã chứng minh tính hiệu quả trong nhiều năm qua.

Tôm thẻ
• 02:21 13/09/2024

Người dân thiệt hại nặng nề khi bão đi qua

Bão số 3 (bão Yagi) đổ bộ vào đất liền, gây nhiều thiệt hại đến nuôi thủy sản cho nhiều tỉnh, thành phố vùng Đông Bắc. Các cơn gió mạnh, sóng lớn và mưa lớn kéo dài đã tàn phá nặng nề các cơ sở nuôi trồng thủy sản, gây ra những hậu quả khôn lường.

Tàu thuyền
• 02:21 13/09/2024

Sự bùng phát của bệnh Herpesvirus Koi năm 2024

Bệnh herpesvirus Koi (KHV) là một trong những thách thức lớn nhất đối với ngành nuôi trồng thủy sản trên toàn cầu. Năm 2024, bệnh này đã bùng phát mạnh mẽ tại nhiều khu vực, gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nuôi cá koi và cá chép.

Cá Koi
• 02:21 13/09/2024

Giảm lượng khí độc khi mưa kéo dài

Mưa lớn và liên tục không chỉ làm giảm độ mặn của nước mà còn có thể dẫn đến tích tụ khí độc trong ao nuôi, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của tôm. Hiểu rõ nguyên nhân và áp dụng các biện pháp kiểm soát hiệu quả là cần thiết để giảm thiểu rủi ro này.

Ao nuôi
• 02:21 13/09/2024
Some text some message..