Thịt cá Măng sữa có giá trị dinh dưỡng cao, trong đó hàm lượng protein chiếm 24,18%, axit béo không bão hòa là 32,11%. Các axit amin thiết yếu chiếm 49,49% tổng số axit amin của thịt cá Măng sữa, trong đó Leucine (8%), lysine (7,3%), phenyl alanin (6,7%) và histidine (6,1%), axit glutamic (18,2%) là axit amin có tỉ lệ cao nhất.
Cá măng sữa cái và cá măng sữa đực
Đặc điểm phân bố
Cá Măng sữa phân bố ở ở Ấn Độ Dương và xuyên Thái Bình Dương, từ Nam Phi đến Hawaii, từ California đến Galapagos, phía bắc đến Nhật Bản, phía nam đến Úc. Cá Măng sữa thường sống ở xung quanh các đảo và dọc theo thềm lục địa, ở độ sâu từ 1 đến 30 m. Chúng cũng thường xuyên vào vùng cửa sông và sông ngòi. Đông Nam Á là trung tâm phân bố ngày nay của loài cá măng sữa. Ngoài Philippines, Indonesia và Đài Loan, cá măng sữa xuất hiện dọc theo bờ biển Thái Lan, Việt Nam và Miến Điện. Cá măng sữa có nhiều ở Sri Lanka, Ấn Độ và xung quanh Andaman, Nicobar, Laccadive, Maldive và Chagos - Quần đảo ở Ấn Độ Dương.
Đặc điểm sinh sản
Thành thục và sinh sản: Cá Măng sữa có giới tính riêng biệt. Trứng cá thành thục theo từng giai đoạn trong buồng trứng. Tuổi và cỡ cá thành thục khác nhau ở những vùng địa lý khác nhau và có sự khác nhau giữa cá nuôi và cá tự nhiên. Ở đảo Panay, Philippines, cá nuôi trong lồng thành thục lần đầu tiên từ 3,5-5 tuổi ở cả hai giới tính, khối lượng từ 2-5 kg/con, chiều dài toàn thân từ 60-70 cm. Cá trong tự nhiên thành thục lần đầu tiên ở chiều dài toàn thân từ 75-85 cm, khối lượng từ 4-5 kg/con, tuổi chưa xác định cụ thể. Ở Indonesia, cá cái trong tự nhiên thành thục lần đầu tiên khi lớn hơn 3,5 kg, hơn 6 tuổi. Còn khi nuôi trong bể, cá đực thành thục lần đầu tiên ở chiều dài 69-77 cm, khối lượng trung bình 3,8 kg, tuổi từ 8 – 9 năm. Cá cái thành thục khi đạt chiều dài 64 – 79 cm, khối lượng trung bình 3,2 kg, tuổi từ 8 – 9 năm.
Thành thục và sinh sản ở cá măng sữa đực và cái
Sức sinh sản và tần suất đẻ trứng: Cá Măng sữa khi thành thục có buồng trứng chiếm khoảng 10% trọng lượng cơ thể. Cá cái có khối lượng 5 – 13 kg có thể đẻ 1-6 triệu trứng, tương đương khoảng 300.000 quả trứng/kg. Cá Măng sữa nuôi trong lồng nổi tại SEAFDEC/AQD nhỏ hơn và sản xuất ít trứng hơn (200.000 trứng/kg). Trong tự nhiên cá Măng sữa có thể đẻ nhiều hơn 2-3 lần trong năm.
Kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo cá măng sữa
Trong quá trình nuôi vỗ cá măng sữa, khi sử dụng thức ăn công nghiệp (có hàm lượng protein 40 %, lipid 6%, kích cỡ 5 mm) cho hiệu quả hơn về thành thục sinh dục và hiệu suất sinh sản so với cá ăn thức ăn tự chế và cá tạp. Cụ thể tỷ lệ cá thành thục đạt 80,0% (cá đực), 86,67% (cá cái), tỷ lệ đẻ đạt 91,67%, tỷ lệ thụ tinh và tỉ lệ nở lần lượt đạt 83,42% và 75,29%.
Các kích dục tố sử dụng trong sinh sản nhân tạo cá Măng sữa là kích dục tố LHRHa, HCG, cụ thể là kết hợp các kích dục tố này với liều lượng 50μg LHRHa + 1000 IU HCG/kg. Ở liều kết khi kết hợp hai loại kích dục tố này cho tỷ lệ trứng thụ tinh đạt 84,22%; tỷ lệ nở 88,68%; tỷ lệ ra bột 85,95%.
Sơ đồ quy trình sản xuất giống cá măng sữa
Ấp trứng cá Măng sữa trong bể composite có nước chảy tràn với mật độ ấp trứng thích hợp 900 trứng/L cho hiệu quả sản xuất tốt hơn với tỉ lệ nở, tỉ lệ sống của cá bột 3 ngày tuổi đạt cao nhất (86,43%), tỉ lệ dị hình thấp nhất (0,16%).
Giai đoạn ương cá bột lên cá hương: lần lượt ương các loại thức ăn phù hợp với từng giai đoạn cá bột. Cụ thể, sử dụng thức ăn luân trùng Brachionus rotundiformis cho cá măng sữa 1-7 ngày tuổi; thức ăn luân trùng Brachionus rotundiformis (5 con/ml) + Brachionus plicatilis (5 con/ml) cho cá Măng sữa 7-14 ngày tuổi; thức ăn Artemia hoặc thức ăn tổng hợp cho cá Măng sữa 15-30 ngày tuổi sẽ đạt tăng trưởng tốt về chiều dài, khối lượng, tỷ lệ sống cao, hệ số phân đàn và tỷ lệ dị hình thấp. Để đạt hiệu quả trong ương nuôi giai đoạn này nên cho cá ăn 2-3 lần/ngày với tỉ lệ cho ăn 10 con/L/ngày.
Trong quá trình ương nuôi cá Măng sữa giai đoạn từ cá hương (cỡ 2-3cm) lên cá giống (cỡ 5-6cm), ương mật độ 1-2 con/L bằng thức ăn tổng hợp với tỷ lệ cho ăn 10% BW và tần suất cho ăn 3 lần/ ngày cho kết quả ương tốt nhất về tốc độ tăng trưởng (9,72 % BW/ngày), tỉ lệ sống (95%), hệ số phân đàn (3,13%) và hệ số chuyển đổi thức ăn (1,8).