Nhận xét:
- Nhiệt độ nước: Thấp hơn tuần trước 1oC dao động từ 28-30oC, nằm trong ngưỡng cho phép.
- Độ mặn: Độ mặn tuần này không khác biệt nhiều so với tuần trước. Chỉ còn 3 điểm có độ mặn đáng kể từ 3-10‰ đó là Đầu Vàm Trà Niên, cống Sáu Quế 1 và cống Xà Mách. Các điểm còn lại hầu như đã ngọt lại độ mặn từ 0-1‰. Cụ thể tại Vĩnh Châu còn 3‰ tại Đầu Vàm Trà Niên, thấp hơn 1-3‰ so cùng kỳ năm 2017. Tại 4 điểm Mỹ Xuyên gần như đã ngọt lại, độ mặn 0-1‰ (bằng với tuần trước và cao hơn 1‰ so cùng kỳ 2017). Tại Trần Đề còn độ mặn 10‰ tại cống Sáu Quế 1 và cống Xà Mách (giảm 2‰ so với tuần trước và thấp hơn 4‰ so cùng kỳ 2017), tại Tầm Vu, cống Xà Mách thì cao hơn 4‰ so cùng kỳ 2017. Tại Cù Lao Dung đã ngọt hóa (bằng tuần trước và bằng cùng kỳ 2017).
- Độ pH: Khu vực Mỹ xuyên và Vĩnh Châu (Đầu Vàm Trà Niên, Kênh Vĩnh Châu) có độ pH thấp 6.2-6.7. Các điểm còn lại có độ pH trong ngưỡng từ 7.0-7.5.
- Độ Kiềm: Khu vực cầu Chàng Ré, Dù Tho và Cù Lao Dung có độ kiềm thấp dưới ngưỡng dao động từ 38-55 mg/l. Các điểm còn lại có độ kiềm trong ngưỡng từ 61-100mg/l.
- Độ trong: Hầu hết các điểm đều có độ trong trong ngưỡng dao động từ 20-45 cm. Riêng tại Vĩnh Châu (Trà Nho, Trà Nõ, Năm Căn, Nophol) và Trần Đề (Tầm Vu, Xà Mách) có độ trong thấp từ 7-15cm.
- Oxy hòa tan: Khu vực Mỹ Xuyên và Vĩnh Châu (cầu Trà Niên, Đầu Vàm Trà Niên, kênh Vĩnh Châu) có hàm lượng oxy thấp <3.0 mg/l. Các điểm còn lại có hàm lượng oxy trong ngưỡng từ 3.6-5.6 mg/l.
Nhận định tình hình 08/2018
- Tháng 08 là tháng chính của mùa mưa nên hầu hết các nơi trong tỉnh đều có mưa, mưa vừa đến mưa to và dông. Trong cơn dông khả năng kèm theo các hiện tượng nguy hiểm như: gió giật mạnh, lốc xoáy, sét đánh,… Tuy nhiên mưa tập trung nhiều về chiều và tối nên ngày vẫn có nắng. Các nhiễu động trên biển trong thời kỳ này hoạt động mạnh và có hướng di chuyển phức tạp, có thể tác động mạnh đến thời tiêt của tỉnh, gây ra những đợt mưa lớn (tổng lượng mưa có thể hơn 100mm/24h).
- Trong tháng hầu hết các ngày đều có mưa. Tổng lượng mưa ở mức cao hơn so với TBNN cùng thời kỳ, lượng nước bốc hơi và số giờ nắng ở mức xấp xỉ so với TBNN cùng thời kỳ.
- Tổng lượng mưa tháng: 25 – 35 mm, ở mức cao hơn so với TBNN cùng thời kỳ. Lượng bốc hơi: 45 - 70mm, tổng số giờ nắng: 130 – 150 giờ, Độ ẩm TB: 85 - 90%.
- Nhiệt độ trung bình: 26.5 – 27.5oC, cao nhất 32.0 – 33.0oC, thấp nhất 22.0 – 23.0oC; Gió tây nam cấp 2, cấp 3.
Đề xuất, kiến nghị
- Hiện nay tại 16 điểm thu mẫu ngoài tự nhiên chỉ còn có 2 điểm có độ mặn trong ngưỡng 10‰ đó là cống Xà Mách và Sáu Quế 1 bà con có thể lấy nước nuôi tôm ở thời điểm này. Các điểm còn lại đã ngọt hoá bà con không nên lấy nước có độ mặn thấp để nuôi tôm nhất là vào mùa mưa hiện tại, nếu nuôi tôm có thể áp dụng biện pháp tái sử dụng nguồn nước vụ trước có độ mặn cao để nuôi tôm đồng thời xử lý nước lại đạt yêu cầu. Bà con cần tuân thủ lịch thả giống của ngành kết thúc thả giống vào ngày 30-9DL. Đối với vùng nuôi luân canh tôm-lúa nên thu hoạch tôm trên nền lúa trước tháng 09 DL để chuẩn bị lắp lại vụ lúa.
- Tình hình thiệt hại trên tôm: Luỹ kế thiệt hại 6.065,2 ha chiếm 14,7% diện tích thả (cùng kỳ 2017 thiệt hại 13,9%). Trong tuần này Vĩnh Châu là địa phương có diện tích thiệt hại cao nhất khoảng 244 ha (Vĩnh Phước 134 ha, Vĩnh Hiệp 63 ha, Vĩnh Hải 43 ha) và Mỹ Xuyên 95,8 ha (Gia Hòa 2 – 57 ha, Hòa Tú 2 – 17 ha). Nguyên nhân chủ yếu do môi trường khoảng hơn 50%, gan tụy khoảng 30%, đốm trắng khoảng 15%, còn lại là rải rác thiệt hại do bệnh phân trắng và tôm chậm lớn đặc biệt là trong giai đoạn mùa mưa.
- Đối với diện tích thiệt hại hoặc sau khi thu hoạch, bà con nuôi tôm tuyệt đối không xả thải nước thải, bùn thải khi chưa được xử lý ra môi trường tự nhiên bên ngoài, mà phải có khu chứa bùn thải và xử lý nước thải sau đó mới thải ra môi trường tự nhiên. Để góp phần quản lý ao tôm tốt hơn trong giai đoạn mùa mưa hiện nay, bà con cần lưu ý một số vấn đề như sau:
1. Ổn định môi trường trong ao tôm
Hiện tại đang trong mùa mưa nên ao nuôi thường đối diện với 2 hình thế thời tiết là nắng nóng và mưa dầm đột ngột sẽ làm cho môi trường ao nuôi dễ biến động (chênh lệch nhiệt độ, tuột kiềm, sụp tảo, khí độc bùng phát,...) làm cho tôm dễ stress và dễ nhiễm bệnh. Do đó cần quản lý theo dõi thật chặt chẽ đặc biệt 03 yếu tố môi trường : (1) độ pH (đo và chuẩn lại độ pH sau những cơn mưa kéo dài); (2) độ Kiềm nên giữ độ kiềm từ 100 mg/l trở lên; (3) Giữ hàm lượng oxy hòa tan ≥5 mg/l, thường oxy thấp nhất là vào giữa đêm đến gần sáng. Đồng thời chuẩn lại các thông số môi trường khác trong ao tôm sao cho nằm trong ngưỡng thích hợp và ổn định cho tôm nuôi.
* Riêng đối với ao đất:
- Rải vôi xung quanh bờ ao trước những cơn mưa và định kỳ sử dụng vi sinh (Bacillus sp, Lactobacillus sp, Nitrosomonas/Nitrobacter, Rhodobacter…) hoặc tiến hành xiphone đáy ao (nếu có) để giúp giảm thiểu chất hữu cơ trong ao, giảm sức tải môi trường trong ao nuôi… giúp đáy ao sạch, môi trường thích hợp cho tôm.
* Đối với ao bạt:
- Nên thiết kế hệ thống xiphone đáy ao, xi phon đáy ao và tuần hoàn nước hằng ngày để loại bỏ phân tôm, vỏ tôm, thức ăn thừa…làm sạch đáy ao.
- Tăng cường kiểm tra môi trường hằng ngày, đo thêm các chỉ tiêu Canxi, Magie, Kali để cung cấp đủ khoáng cho tôm lột tốt.
2. Quản lý sức khỏe tôm nuôi:
- Bắt giống phải có giấy kiểm dịch và xét nghiệm các mầm bệnh nguy hiểm trên tôm (Đốm trắng, gan tụy cấp, Còi (MBV), EHP, TSV...) và phải thực hiện thuần dưỡng cho quen dần với 4 yếu tố đó là pH, nhiệt độ, độ mặn, độ kiềm trong bọc giống với nước ao nuôi ít nhất 1 giờ rồi mới thả. Chỉ thả giống khi nhiệt độ trong ao <30oC (sáng sớm hoặc chiều mát).
- Thường xuyên theo dõi các biểu hiện bên ngoài của tôm (gan, ruột, mang...) để có biện pháp xử lý sớm và chữa trị kịp thời. Thường xuyên kiểm tra sự xuất hiện của vi khuẩn Vibrio sp trong ao nuôi để có biện pháp diệt khuẩn hoặc dùng vi sinh khống chế kịp thời, thường kiểm Vibrio 1-2 lần/tuần từ ngày thứ 20 trở đi. Mật độ vi khuẩn Vibrio trong nước ao nuôi tôm nên duy trì <400 khuẩn lạc/ml để hạn chế bệnh chết sớm EMS và các bệnh do vi khuẩn Vibrio gây nên. Thường xuyên bổ sung các vitamin, CPSH, Beta-Glucan…vào thức ăn giúp tăng cường sức đề kháng trên tôm và chống chọi thời tiết cực đoan.
*Lưu ý: Đối với các bệnh do tác nhân là virut (điển hình là bệnh đốm trắng -WSSV) hiện nay chưa có thuốc điều trị; đối với các bệnh do tác nhân là vi khuẩn (điển hình là bệnh hoại tử gan-EMS/AHPND) có khả năng điều trị được nếu tỉ lệ tôm bệnh <30%. Kháng sinh không có tác dụng tăng sức đề kháng hoặc phòng bệnh trên tôm và điều trị kém hiệu quả, dễ kháng-kháng sinh nếu không có phát đồ điều trị đúng, dễ mất an toàn thực phẩm do tồn lưu kháng sinh trong tôm nuôi khi xuất bán.
2. Quản lý cho ăn vừa đủ:
Tôm nuôi nhất là tôm thẻ là loài rất háo ăn, tôm là loài ruột thẳng, tiêu hóa và hấp thụ chỉ 30-40% lượng thức ăn và 60-70% lượng thức ăn còn lại thải ra ngoài ở dạng phân tôm, gây ô nhiễm hữu cơ, tạo điều kiện cho vi khuẩn có hại, khí độc và tảo độc phát triển. Do đó nên cho tôm ăn ít, vừa đủ khoảng 80-90% lượng khuyến cáo/bảng cho ăn thông thường. Đối với ao thả mật độ thưa thì ban đầu nên gây tạo nhiều thức ăn tự nhiên (Copepoda/trứng nước) và trong giai đoạn đầu (trước 20 ngày) nên cho tôm ăn ít và hạn chế tối đa lượng thức ăn cho tôm ăn. Những ngày mưa dầm đột ngột (nhiệt độ nước <25oC) hoặc nắng nóng gay gắt (nhiệt độ nước trên 32oC) nên chủ động giảm 30-50% lượng thức ăn của ngày hôm trước. Đảm bảo hàm lượng oxy hòa tan trong nước ≥ 5 mg/l để giúp tôm khỏe và tiêu hóa chuyển hóa tốt thức ăn. Không nên sử dụng kháng sinh trộn cho tôm ăn để chữa trị hoặc phòng bệnh mà nên sử dụng các loại CPSH hoặc các loại thảo dược như tỏi, trái cau, lá ổi, cây mật gấu, diệp hạ châu… để phòng ngừa bệnh đường ruột và gan tụy.
* Lưu ý:
Bà con cần chủ động đo đạc các yếu tố môi trường trong ao nuôi, đồng thời theo dõi sát kết quả quan trắc môi trường nước cũng như thông tin cảnh báo dịch bệnh, thông tin về bản tin thời tiết, giải pháp khuyến cáo của ngành chức năng để có cách xử lý ao tôm kịp thời, chủ động ứng phó với thời tiết cực đoan.
Hiện nay thị trường tôm trên thế giới không những cạnh tranh về sản lượng mà còn cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh về giá thành làm ra sản phẩm (chi phí sản xuất) do đó nuôi tôm bà con hạn chế tối đa việc lạm dụng thuốc hóa chất vào ao tôm và quản lý cho ăn vừa đủ, tiết kiệm thức ăn, chủ động kết nối liên kết tất cả các vật tư đầu vào (giống, thức ăn, thuốc men, bạt phủ, lưới che, cánh quạt,…) nhằm giảm tối đa giá thành sản xuất và nâng cao giá trị sản phẩm.