Nghiên cứu mới đây của nhà khoa học Trung Quốc cho thấy men thủy phân (Rhodotorula mucilaginosa) và Bacillus licheniformis có khả năng tăng cường sức khỏe đường ruột, phản ứng miễn dịch và khả năng kháng amoniac ở tôm thẻ chân trắng.
Trong nghiên cứu hiện tại, hoạt chất miễn dịch thu được từ nấm men thủy phân (Rhodotorula mucilaginosa) chủ yếu là các oligosaccharid mannan tồn tại tự nhiên (MOS) cũng như β-glucan. MOS và β-glucan là những prebiotics rất phổ biến, có thể kích thích sự phát triển, tăng cường sự trao đổi chất của các vi khuẩn có lợi như bifidobacteria, lactobacillus và tăng khả năng tiêu hóa chất dinh dưỡng cũng như phản ứng miễn dịch. Hơn nữa, MOS và β-glucan có thể tạo ra chất chống bám dính đối với mầm bệnh.
Để khám phá tác động của nấm men thủy phân trong chế độ ăn (Rhodotorula mucilaginosa) và Bacillus licheniformis (B. licheniformis) đối với sự tăng trưởng, mô học ruột, phản ứng miễn dịch bẩm sinh và khả năng kháng amoniac của tôm thẻ chân trắng, bốn chế độ ăn thử nghiệm (0% (Đối chứng); 0,5% thủy phân nấm men (HY); 0,1% B. lincheniformis (BL) và 0,5% nấm men thủy phân + 0,1% B. licheniformis (SYN)) được cho tôm ăn trong 8 tuần. Sau đó đánh giá tôm được thử thách stress với amoniac.
Sau 8 tuần cho ăn cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về tốc độ tăng trưởng và thành phần cơ thể giữa tất cả các nghiệm thức, trong khi hiệu quả sử dụng thức ăn (FE) cao hơn đáng kể ở tôm ăn chế độ ăn BL và tỷ lệ hiệu suất protein (PER) cao hơn đáng kể ở tôm ăn chế độ BL và SYN được tìm thấy so với ở tôm cho ăn khẩu phần đối chứng (P<0,05).
Phân tích mô học cho thấy, vào tuần thứ 4, chiều cao nhung mao ruột cao hơn ở tôm được cho ăn chế độ ăn bổ sung. Vào tuần thứ 8, số lượng nhung mao cao hơn đáng kể ở tôm ăn chế độ ăn BL và SYN, chiều cao lông nhung cao hơn ở tôm được cho ăn chế độ ăn bổ sung đã được quan sát so với ở tôm ăn chế độ ăn đối chứng. Hơn nữa, không có thay đổi mô bệnh học ruột rõ ràng trong tất cả các phương pháp điều trị.
Chi tiết kiểm tra mô học ruột của tôm thẻ chân trắng được nuôi bằng các chế độ ăn thử nghiệm. Tuần 4: A (Đối chứng); B (HY); C (BL); D (SYN). Tuần 8: E (Đối chứng); F (HY); G (BL); H (SYN). VH, SM, LP lần lượt thể hiện chiều cao nhung mao, lớp dưới niêm mạc và lớp đệm. Thanh chia độ = 20 μm; Độ phóng đại ban đầu × 200.
Hoạt động của enzym trong gan tụy so với chế độ ăn đối chứng các hoạt động GPX, SOD và ACP đã tăng lên đáng kể và hàm lượng MDA giảm trong gan tụy của tôm được cho ăn chế độ ăn bổ sung.
Mức độ biểu hiện của CAT, GPX, SOD, Pen-3a và PPO được điều chỉnh bằng chế độ ăn bổ sung ở tuần 1, 2, 4 và 8. Ngoài ra, mức độ biểu hiện của các gen này, đặc biệt là Pen-3a và SOD đã xuất hiện ở xu hướng tăng đầu tiên và sau đó giảm trong thời gian cho ăn. Ở tuần thứ 4 và 8, mức độ biểu hiện của proPO được điều chỉnh tăng lên ở tôm được cho ăn chế độ ăn bổ sung so với ở tôm được cho ăn chế độ ăn đối chứng.
Sau thử thách với amoniac ở tuần thứ 8, tôm ăn chế độ ăn HY và SYN cho thấy tỷ lệ sống cao hơn đáng kể so với tôm có chế độ ăn đối chứng. Hơn nữa, sự biểu hiện của Pen-3a, PPO và SOD trong các nghiệm thức bổ sung đã được điều chỉnh đáng kể sau khi thử nghiệm amoniac.
Tác động của men thủy phân trong chế độ ăn và B. licheniformis phụ thuộc nhiều vào loài, thời gian cho ăn và liều lượng cung cấp. Kết quả chứng minh rằng men thủy phân trong chế độ ăn, B. licheniformis hoặc sự kết hợp của chúng không có tác động đáng kể đến hiệu suất tăng trưởng và thành phần cơ thể, nhưng ảnh hưởng đến sức khỏe đường ruột, phản ứng miễn dịch và khả năng kháng amoniac của tôm thẻ chân trắng Litopenaeus vannamei với chế độ ăn kết hợp giữa men thủy phân (khẩu phần 5 g/kg) và B. licheniformis (khẩu phần 1 g/kg) sẽ là một chất bổ sung kích thích miễn dịch đầy hứa hẹn cho việc nuôi tôm thẻ chân trắng.