Kể từ năm 1980, ngành nuôi trồng thủy sản đã có tốc độ tăng trưởng hàng năm là 8,8%. Theo truyền thống, bột cá và dầu cá là nguồn thức ăn chính. Tuy nhiên, do sự tăng trưởng nhanh chóng nên các thành phần này (bột cá và dầu cá) đang dần bị hạn chế. Vì vậy, một quá trình chuyển đổi hướng đến một loại thức ăn chứa nhiều thực vật hơn đã dần dần diễn ra. Thức ăn có nguồn gốc thực vật này ảnh hưởng như thế nào đến cá đã được thảo luận rộng rãi.
Ngoài thách thức trên, sự nóng lên toàn cầu làm thay đổi môi trường của các loài thủy sản cũng là một lo lắng khác cho nghề nuôi trồng thủy sản.
Theo một nghiên cứu mới đây của Đại học Khoa học đời sống Na Uy (NMBU), dường như sự kết hợp của hai thách thức này có thể làm cho nuôi trồng thủy sản trở nên khó khăn hơn.
Khả năng tiêu hóa của cá
Trong nghiên cứu của Peyman Mosberian Tanha, một nhà nghiên cứu tại NMBU, đã cho thấy rằng cho cá ăn một thức ăn có chứa nhiều thực vật đã làm giảm khả năng tiêu hóa chất béo và tinh bột của cá. Thêm vào đó, khi đưa cá vào một môi trường mô phỏng tác động của sự nóng lên toàn cầu, sự tiêu hóa chất béo và tinh bột bị giảm đi nhiều.
Mosberian Tanha nói: “Điều này chứng minh rằng có một mối liên hệ giữa thức ăn và khả năng của cá để tiêu hóa thức ăn dưới những thách thức môi trường”.
Ảnh hưởng này đến chức năng tiêu hóa và sức khoẻ đường ruột của cá có thể làm cho chúng ít đề kháng hơn với bệnh tật và nhiễm trùng.
Sự kết hợp giữa thức ăn và môi trường xấu
Trong luận án tiến sĩ của mình, Mosberian Tanha đã kết hợp hai hướng: thách thức về sự thay đổi thức ăn và những thay đổi về môi trường trong hệ thống nước ngọt lên hiệu suất và tình trạng sức khỏe của cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss). Bằng cách đặt cá vào tình trạng có nồng độ oxy trong nước thấp hơn, Mosberian Tanha đã giả lập ảnh hưởng của sự nóng lên toàn cầu đối với môi trường của các loài thủy sản.
Mosberian Tanha đã cho biết, trong từng tình huống riêng lẻ thì thách thức của thức ăn có nhiều nguyên liệu từ thực vật hoặc môi trường ở dưới mức tối ưu có thể không là vấn đề. Tuy nhiên, khi kết hợp chúng lại, ông đã thấy rằng những thay đổi về môi trường kết hợp với đi cùng với thay đổi chất lượng nước có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu suất cũng như tình trạng sức khỏe của cá.
Làm yếu “tuyến phòng thủ đầu tiên”
Nghiên cứu của Mosberian Tanha đã xem xét những yếu tố môi trường và thức ăn tương tác lẫn nhau như thế nào đến niêm mạc ruột (một lớp mỏng tạo thành các nếp nhăn trong các khoang và ống tiêu hóa), và những tác động qua lại này có thể gây tác hại như thế nào đến tuyến phòng thủ là chất nhầy này.
“Niêm mạc đã phát triển một chức năng ngăn chặn sự xâm nhập của các vi sinh vật và các chất không mong muốn. Bất kỳ thách thức nào đối với rào cản niêm mạc vượt quá khả năng chịu đựng của nó đều có ảnh hưởng tiêu cực đến chức năng và tính toàn vẹn của tuyến phòng thủ này, từ đó dẫn đến những sự rối loạn chức năng cao hơn của ruột”, ông Tanha nói.
Tối ưu hóa thức ăn để giảm stress
Tangeran Mosbian cũng phát hiện ra rằng thức ăn có nhiều nguyên liệu thực vật dẫn tới chứng viêm ruột sau của cá. Nhưng mức độ viêm không tăng thêm ở môi trường dưới mức tối ưu.
Khi cá bị đặt trong tình trạng có những thách thức về môi trường như nhau, nhưng ăn một loại thức ăn tốt hơn, thì không thấy có bất kỳ ảnh hưởng bất lợi nào đối với khả năng tiêu hóa dưỡng chất hay sức khoẻ của đường ruột.
Mosberian Tanha dự đoán về sự cần thiết để có những hiểu biết sâu sắc hơn nữa. Ông nói: “Nhiều loài cá khác nhau có thể có phản ứng khác nhau với những thách thức. Vì vậy, điều quan trọng là phải có kiến thức sâu hơn về chức năng và tính toàn vẹn của rào cản niêm mạc ruột ở các loài cá khác nhau và sự tương tác giữa những thách thức về chế độ ăn uống và môi trường có thể ảnh hưởng như thế nào đến tính toàn vẹn của rào cản niêm mạc và cân bằng nội mô ruột”.
Một gợi ý từ những kết quả nghiên cứu của Mosberian Tanha là khả năng cải thiện hiệu suất và tình trạng sức khoẻ của cá trong một môi trường không tối ưu bằng cách điều chỉnh chế độ ăn tối ưu để đối phó với những thách thức hai mặt (môi trường và thức ăn).
Nghiên cứu được thực hiện với sự hợp tác của Đại học Wageningen ở Hà Lan.