“Thạc sĩ tôm sú”
Phải mất rất nhiều thời gian đi trên con đường đất được đắp bằng bùn khô chúng tôi mới đến khu vực nuôi tôm, cua của anh Nghiệp. Đó là khu vực nằm sâu trong Rừng Sác, giáp ranh với sông Thị Vải thuộc xã Phước An. Căn chòi lá dựng tạm bằng gỗ tràm, bên trong có vài vật dụng đơn giản để người canh đầm có thể nấu ăn và ngủ. Điều đặc biệt làm cho chòi lá của anh Nghiệp khác hẳn với những căn chòi khác trong vùng là bên trong có một kệ sách với nhiều giáo trình, tài liệu về kinh tế, kế toán. Một chiếc bàn nhỏ vừa là nơi uống nước, ăn cơm vừa là nơi anh xem tài liệu những khi rảnh.
Anh kể, năm 2007, sau khi tốt nghiệp chuyên ngành kế toán Trường cao đẳng kinh tế Đối ngoại TP. Hồ Chí Minh, cầm tấm bằng giỏi trong tay, anh nhanh chóng tìm được việc làm phù hợp ở một công ty nước ngoài có trụ sở tại quận 3, TP. Hồ Chí Minh. 3 năm sau, vừa làm, anh vừa học liên thông đại học. Năm 2013, anh tiếp tục đăng ký học Thạc sĩ kinh tế tại Đại học Tôn Đức Thắng. Bạn bè, người thân nghĩ rằng, anh học lên nữa là để làm cán bộ quản lý hoặc chí ít cũng thăng chức. Riêng anh nghĩ khác, anh cho rằng mình học không phải để lấy tấm bằng mà học để biết, để phục vụ công việc.
Nhưng rồi, một biến cố xảy ra, cha anh mất. Anh quyết định nghỉ việc tại công ty nước ngoài, về quê phụ mẹ nuôi tôm sú, cua biển vừa theo học thạc sĩ. “Cha tôi làm đùm (đùm là một dụng cụ bằng lưới, dùng bắt tôm, cua - PV) ở xứ này từ lúc lớn lên cho đến khi mất. Nhờ nghề này, cả gia đình mới có được cuộc sống như ngày hôm nay, tôi được ăn học đủ đầy. Cha mất rồi, 7 ha đùm mẹ không quản được. Nghỉ việc cũng tiếc, bởi ở công ty nước ngoài, không phải ai có bằng cấp cũng vào được. Tuy nhiên, chỉ dừng công việc chuyên môn, chứ tôi không dừng việc học được”, anh Nghiệp kể.
Tháng 11-2017, anh hoàn thành mô hình đồ án tốt nghiệp. Bạn bè khuyên nên ở lại thành phố, vừa tiếp tục đi dạy thêm ở một số trường trung cấp, cao đẳng kinh tế vừa làm việc cố định ở một công ty, nhưng anh không làm theo. Thay vào đó, anh trở về quê nhà, tiếp tục công việc của cha, tranh thủ những ngày cuối tuần lên Sài Gòn giảng bài. “Mặc dù có vất vả hơn, nhưng tôi thấy hài lòng với quyết định của mình. Tôi vừa được đứng lớp, được tiếp cận thông tin, tri thức mỗi ngày vừa tiếp quản công việc của gia đình. Xem ra, tôi vẫn có 2 nguồn thu nhập đấy chứ”, anh Nghiệp vui vẻ nói và cho biết, mỗi lần bạn bè gọi điện, họ thường bắt đầu với cụm từ “thạc sĩ tôm sú...”.
Nâng cao hiệu quả nuôi tôm truyền thống
Quá trưa, anh và một người bạn chèo ghe nhỏ bắt đầu đặt đùm. Anh nói, nuôi tự nhiên nên thả giống, thu hoạch cũng theo thuận theo tự nhiên. Thời gian thả giống lý tưởng là từ tháng 1 đến tháng 7 âm lịch, giống được thả hằng tuần theo hình thức gối đầu. Con giống chủ yếu mua từ những người đánh bắt ngoài sông quanh khu vực, một số ít được nhập từ Cà Mau, Vũng Tàu. Từ khi thả đến lúc thu hoạch khoảng 4 tháng và thường thu nhiều vào các ngày 14, 15 hằng tháng, khi con nước lên. Anh Nghiệp cho biết tôm sú, cua biển ở đây tự tìm thức ăn trong đầm là cá nhỏ, rong rêu và các sinh vật khác chứ người nuôi không thả bất cứ loại thức ăn nào xuống đầm. Sau thu hoạch, tôm, cua sẽ được bỏ mối cho các nhà hàng hoặc tiểu thương trong vùng. Hiện tại, tôm loại 1 (10 con/kg) giá 550.000 đồng/kg và loại nhỏ nhất (30 con/kg) là 250.000 đồng/kg; cua gạch 450.000 đồng/kg, cua thịt tùy loại có giá từ 200.000 - 400.000 đồng/kg.
Anh Trần Hoàng Nghiệp chèo ghe thả đùm.
Do đi vào thời gian nước cạn, chúng tôi không được chứng kiến cảnh đặt đùm thu hoạch tôm cua, nhưng theo lời của anh Nghiệp, có những con cua biển nặng tới hơn 1kg và có giá gần 1 triệu đồng.
Cũng vì thuận theo tự nhiên nên nghề nuôi tôm, cua ở đây chịu nhiều rủi ro, có khi thất thu. Đặc biệt vào mùa mưa, nước dâng cao bất thường, nếu không có người canh xả nước kịp thời, tôm, cua bò ra ngoài đầm. Cũng có khi nước không ngập nhưng mưa lớn đột ngột làm vật nuôi bị sốc nhiệt chết. Rủi ro lớn nhất và cũng khó đề phòng nhất là tình trạng ô nhiễm nguồn nước, tuy không xảy ra thường xuyên nhưng nếu nguồn nước bị ô nhiễm thì toàn bộ tôm, cua có trong hồ sẽ chết hết. Một rủi ro nữa là người nơi khác đến đặt đùm. Vì vậy, ngoài người canh thường xuyên, mỗi chòi đều có nuôi chó. “Khu vực này chưa có điện, nên chúng tôi phải nuôi chó, phòng ban đêm, mình không đi kiểm tra được hết nhưng có con chó cũng yên tâm”, anh Nghiệp nói.
Tuy rủi ro nhiều, lợi nhuận không cao như nuôi tôm công nghệ cao nhưng theo anh Nghiệp, hình thức nuôi thủy sản quảng canh này lại không sợ lỗ bởi chi phí bỏ ra rất ít. Con giống chỉ 1.000 - 2.000 đồng/con, nhưng khi bán giá gấp 100 lần; tiền thức ăn không mất, không phải xử lý mặt bùn mỗi năm. Đầm nuôi cũng không cần chạy máy để tạo oxy trong nước.
Khi được hỏi chừng nào chuyển sang nuôi công nghiệp, nuôi siêu thâm canh, anh Nghiệp chần chừ rồi nói: chắc tôi vẫn giữ nuôi truyền thống, bởi cách nuôi này đơn giản, chắc ăn. Tôi vừa nuôi tôm vừa đi dạy thêm vào cuối tuần được. Hơn nữa, việc tiêu thụ tôm, cua nuôi tự nhiên cũng khá thuận lợi, mặc dù chúng có giá cao hơn. Với 7 ha tôm, cua, trung bình mỗi năm tôi thu vài trăm triệu đồng, trong khi chi phí bỏ ra chỉ bằng 1/10 số đó. “Mình vẫn nuôi theo hướng truyền thống nhưng sẽ kết hợp bổ sung thêm thức ăn thiên nhiên như cá, tôm nhỏ khoảng 2 - 3 lần/tuần để rút ngắn thời gian nuôi. Bên cạnh đó, sẽ đầu tư gia cố bờ bao, lưới quây nhằm hạn chế nguồn nước bên ngoài xâm nhập vào, hạn chế tôm, cua bò ra khỏi đầm”, anh Nghiệp cho biết.
Tận dụng nguồn nước lợ, nước nhiễm mặn khu vực Rừng Sác, nhiều năm nay, người dân xã Phước An đã nuôi thành công nhiều loại thủy sản như tôm sú, cua biển, một số loại cá cho thu nhập khá. Theo lãnh đạo xã Phước An, địa phương hiện có trên 1.000 ha diện tích nuôi tôm, cua. Trong đó, diện tích nuôi tôm công nghiệp khoảng 200 ha. Mặc dù nuôi thủy sản công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, rủi ro thấp hơn nhưng do chi phí đầu tư ban đầu lớn, giá bán lại thấp hơn nuôi tự nhiên nên nhiều hộ dân vẫn “trung thành” với lối nuôi truyền thống.