Áp dụng các quy trình sản xuất cá an toàn và sạch với môi trường sẽ thúc đẩy chất lượng cá rô phi đủ đáp ứng cho nhu cầu của thị trường. Theo đó, cần xác định và phát triển các sản phẩm mới dựa trên thực vật để cho ra cá rô phi toàn đực nhằm thay thế nội tiết tố và hóa chất. Các hợp chất tự nhiên có trong thực vật như flavonoid, tannin, terpenoid, alkaloid và steroid thúc đẩy quá trình androgen cũng như kích thích tiêu hóa, thèm ăn và miễn dịch. Các chất hóa thực vật bao gồm saponin steroid và flavonoid làm giảm sản sinh estrogen bằng cách ức chế hoạt động của aromatase. Các chất phytochemical cũng có thể cạnh tranh với các estrogen nội sinh để liên kết các vị trí với thụ thể estrogen, do đó ngăn chặn quá trình sinh tổng hợp estrogen.
Do đó, các chất phytochemical hoạt động như “phytoandrogens” có chức năng tương tự như testosterone ở động vật, nâng cao đặc điểm sinh dục đực. Tiềm năng của chất phytochemical trong chiết xuất thực vật để tạo ra giới tính đực hoặc suy giảm khả năng sinh sản ở cá đã được khai thác để kiểm soát sự sinh sản ở cá rô phi.
Carica papaya (đu đủ)
Thuộc bộ Brassicales và Họ Caricaceae. Đu đủ có chứa các vi chất dinh dưỡng như vitamin A và C, caroten và khoáng chất. Hạt đu đủ có chứa alkaloid, steroid, flavonoid, saponin và tannin. Ngoài ra, saponin, oleanolic axit 3-glucoside là những hợp chất có hoạt tính sinh học chính trong hạt của đu đủ có khả năng chống thụ thai hoặc gây vô sinh. Các glucosit trong bột hạt cũng có thể phân hủy các tế bào tuyến sinh dục trong tinh hoàn và buồng trứng của cá rô phi.
Các glucosit trong bột hạt có thể phân hủy các tế bào tuyến sinh dục trong tinh hoàn và buồng trứng của cá rô phi. Ảnh: pbs.twimg.com
Azadirachta indica
Thường được gọi là cây “neem” thuộc bộ Rutales. Chất chiết xuất từ các bộ phận khác nhau của cây neem có tác dụng kháng khuẩn, chống viêm và diệt tinh trùng, cũng như hoạt động chống vô sinh và đặc tính phá thai. Điều này được cho là do nồng độ cao của saponin và tannin điều chỉnh khả năng sinh sản trong chất chiết xuất từ cây neem. Do đó, hoạt động kháng sinh của cây neem đã được khai thác để kiểm soát sự sinh sản ở cá rô phi trong các hệ thống nuôi. Ví dụ, bổ sung bột neem 2,0 g/kg làm cho tinh hoàn và buồng trứng của cá rô phi không có tinh trùng và tế bào trứng sau 60 ngày. Hay cá rô phi sông Nile được cho ăn theo khẩu phần chứa 1,0-8 g/kg chất chiết xuất từ lá cây neem làm giảm số lượng trứng nở hay không sinh sản vào tuần thứ năm. Ngoài ra, chúng làm giảm tỷ lệ sinh sản của cá rô phi sông Nile 76% ở 8,0 g/kg khẩu phần trong 90 ngày.
Hoạt động kháng sinh của cây neem đã được khai thác để kiểm soát sự sinh sản ở cá rô phi trong các hệ thống nuôi. Ảnh: latin-wife.com
Moringa oleifera (chùm ngây)
Thuộc bộ Brassicales, họ Moringaceae. Lá, rễ và vỏ của cây chùm ngây chứa flavonoid, steroid và triterpenoids (axit oleanolic-3-glucoside và β-sitosterol). Các hợp chất có hoạt tính sinh học axit oleanolic-3-glucoside và β-sitosterol trong chất chiết xuất từ chùm ngây là những chất có khả năng chống vô sinh ở động vật. Ở cá, chất chiết xuất từ M. oleifera gây ra chênh lệch tỷ số giới tính so với giới tính chủ yếu là giới tính đực. Tương tự, bột hạt M. oleifera trộn trong chế độ ăn của giới tính cá rô phi chưa trưởng thành và trưởng thành ở mức 2,0 và 5,0 g/kg cho ăn trong 60 ngày, biểu hiện tác dụng chống sinh sản và ngăn cản sự sinh sản của cá. Đáng chú ý, kéo dài thời gian xử lý cá rô phi sông Nile trên khẩu phần có chiết xuất từ lá M. oleifera với 5% tổng lượng protein trong khẩu phần, trong 90 ngày, tế bào chất của noãn bị thoái hóa nghiêm trọng. Các nghiên cứu thử nghiệm trước đây cho thấy rằng các chất chiết xuất từ M. oleifera có thể được khai thác để ngăn ngừa sinh sản không mong muốn trong các cơ sở nuôi cá rô phi.
Chất chiết xuất từ M. oleifera có thể được khai thác để ngăn ngừa sinh sản không mong muốn trong các cơ sở nuôi cá rô phi. Ảnh: ayushvedah.com
Psidium guajava (ổi)
Là thành viên của bộ Myrtales và họ Myrtaceae. Chiết xuất từ lá P. guajava chứa ancaloit, saponin, tannin và flavanoid. Chế độ ăn bao gồm chiết xuất P. guajava ở mức 4,0 và 8,0 g/kg trong 56 ngày, gây teo và hoại tử mô tinh hoàn và buồng trứng của cá rô phi sông Nile.
Chất chiết xuất từ P. guajava gây teo và hoại tử mô tinh hoàn và buồng trứng của cá rô phi sông Nile. Ảnh: pacifichorticulture.org
Aloe vera (nha đam)
Là một loài thực vật mọng nước lâu năm không thân hoặc thân rất ngắn, thuộc họ Asphodelaceae. Nó phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới. Nha đam chứa saponin, flavonoid, tannin, anthraquinon và ancaloit. Trong số các thành phần hoạt tính sinh học, saponin và flavonoid có liên quan đến việc kiểm soát sinh sản ở động vật. Việc bao gồm các chất chiết xuất từ A. vera, với hàm lượng thấp 2,0 ml/kg trong khẩu phần ăn của cá rô phi sông Nile, gây ra sự phân hủy của tinh trùng và nang trứng do đó ức chế sự phát triển và hoạt động của tuyến sinh dục. Các saponin trong chất chiết xuất từ cây A. vera tăng cường sản xuất testosterone ở cá.
Các saponin trong chất chiết xuất từ cây A. vera tăng cường sản xuất testosterone ở cá. Ảnh: versiya.info
Quillaja saponaria (cây xà phòng)
Thuộc bộ Fabales, họ Quillajaceae. Cây này là có nguồn gốc từ Trung Quốc, Peru và Chile. Vỏ của Q. saponaria chứa saponin triterpenoidal, chủ yếu là glycoside triterpene, có thể ức chế sự sinh sản của cá và tăng hiệu suất tăng trưởng. Cho cá rô phi sông Nile cái trưởng thành sinh dục ăn thức ăn có chứa chất chiết xuất Q. saponaria ở 300 mg/kg, kết quả giúp cá chuyển thành cá rô phi rô phi đực. Liều 700 mg/kg saponin ly trích từ Q. saponaria trong khẩu phần ăn đã chuyển giới tính của cá rô phi sông Nile thành cá đực.
Tương tự, chất chiết xuất saponin của Q. saponaria được kết hợp trong khẩu phần ăn của cá rô phi sông Nile dẫn đến sự gia tăng đáng kể số lượng cá thể đực. Như vậy, triterpenoid saponin trong Q. saponaria cần được khai thác để sản xuất các quần thể toàn đực trong nuôi cá rô phi.
Chất chiết xuất trong Q. saponaria giúp cá chuyển thành cá rô phi rô phi đực.CHÈN ẢNH 7 pinimg.com
Butea superba (giềng giềng đẹp)
Thuộc bộ Fabales, họ Leguminosae. Loại thảo mộc bản địa của Thái Lan này được sử dụng để tăng hiệu suất hình thành tuyến tình dục đực. Cụ thể, rễ của B. superba chứa flavonoid, tannin, alkaloid, glycoside và phenol. Các chất phytochemical này, đặc biệt là flavonol và flavonoid glycoside, được phân lập từ Butea superba hoạt động như phytoandrogens, với tác dụng tương tự như testosterone. Sự hiện diện của glycoside flavonoid kích thích sản xuất testosterone, làm tăng chuyển đổi giới tính cho các cá thể đực. Nỗ lực sử dụng chất chiết xuất từ B. superba để kiểm soát quá trình sinh sản ở cá rô phi thông qua sản xuất toàn đực đã thu được tới 100% cá thể rô phi đực.
Các chất có trong Butea superba kích thích sản xuất testosterone, làm tăng chuyển đổi giới tính cho các cá thể đực. Ảnh: powo.science.kew.org
Aspilia mossambicensis
Các chất chiết xuất từ A. mossambicensis có tác dụng kiểm soát quá trình sinh sản của cá rô phi sông Nile. Ảnh: randomharvest.co.za
Còn được gọi là “hướng dương dại”, thuộc bộ Asterales và họ Compositae. Loại cây này phổ biến ở vùng nhiệt đới trung và đông châu Phi. Tác dụng chống sinh sản của A. mossambicensis có liên quan đến sự hiện diện của saponin và flavonoid. Cho cá rô phi sông Nile ăn trong khẩu phần có 2–8 g/kg chiết xuất lá A. mossambicensis làm giảm số lượng cá con nở ra ở cá thí nghiệm. Do đó, các chất chiết xuất từ A. mossambicensis có tác dụng kiểm soát quá trình sinh sản của cá rô phi sông Nile.
Garcinia kola
Bột hạt kola đắng trong chế độ ăn của cá rô phi cái dẫn đến suy giảm sự phát triển của tuyến sinh dục cái. Ảnh: wikiimg.tojsiabtv.com
Là một loài thực vật có hoa, bản địa của các khu rừng mưa nhiệt đới ở Tây và Trung Phi, thuộc bộ Malpighiales, họ Clusiaceae. Loại cây này thường được gọi là cây kola đắng, kola đực, hay cây kỳ diệu. Kola đắng chứa flavonoid, chủ yếu là apigenin, có tác dụng ức chế enzym aromatase. Enzyme aromatase xúc tác sự chuyển đổi nội tiết tố androgen thành estrogen, trong bước cuối cùng của quá trình sinh tổng hợp các steroid tuyến sinh dục, sau đó tăng testosterone. Sự tắc nghẽn tổng hợp estrogen gây ra các hiệu ứng chống vô sinh, có thể được khai thác để kiểm soát sự sinh sản của động vật. Trong nuôi trồng thủy sản, việc bao gồm 1, 3 và 6% bột hạt kola đắng trong chế độ ăn của cá rô phi cái sông Nile trong 70 ngày dẫn đến suy giảm sự phát triển của tuyến sinh dục cái. Bên cạnh đó, giảm đáng kể (83,45%) số lượng trứng cá rô phi khi được duy trì trên chế độ ăn 6% bột hạt kola đắng trong 44 ngày do liên quan đến sự hiện diện của flavanoid.