Thực trạng và hướng phát triển bền vững nuôi cá biển

PGS.TS Phạm Đức Hùng ở Viện Nuôi trồng Thủy sản thuộc Trường Đại học Nha Trang phân tích thực trạng nuôi cá biển hiện nay, từ con giống đến các đối tượng và hình thức nuôi còn nhiều hạn chế, từ đó đề xuất hướng phát triển bền vững.

Cá biển
Nhóm cá dữ là những loài nuôi biển chính ở Việt Nam

Đối tượng nuôi rất đa dạng  

Điều kiện tự nhiên ở nước ta cũng như sự sáng tạo của người dân và doanh nghiệp đã nuôi khá đa dạng cá biển, tập trung vào 2 nhóm: Cá dữ và cá ăn tạp. Nhóm cá dữ là những loài nuôi biển chính ở Việt Nam, có giá trị kinh tế cao, phù hợp cho nuôi công nghiệp; được nuôi đơn trong lồng hoặc ao, tập tính ăn động vật với nhu cầu protein cao. Còn nhóm ăn tạp có tập tính ăn thực vật, mùn bã hữu cơ với nhu cầu protein trung bình, chủ yếu nuôi ghép trong ao đất, lồng ven bờ, quy mô và sản lượng hạn chế. 

Nhóm cá dữ lại có thể chia thành 2 nhóm nhỏ: Đối tượng chính và số còn lại. Đối tượng chính gồm cá chẽm, chim vây vàng, hồng Mỹ, mú lai, bớp; đã chủ động sản xuất giống nhân tạo, hoàn thiện thức ăn công nghiệp dành riêng (trừ cá bớp). Thích nghi tốt với nuôi lồng, nuôi ao, tăng trưởng nhanh; có tiềm năng về thị trường tiêu thụ, giá trị kinh tế cao; có thể mở rộng nuôi trong lồng tròn HDPE ở các vùng biển xa bờ. Tuy nhiên, nhu cầu dinh dưỡng cao, giá thức ăn cao và yêu cầu môi trường sạch, kỹ thuật nuôi tốt. 

Các đối tượng còn lại trong nhóm cá dữ là sủ đất, hồng đỏ, hồng bạc, tráp, gáy biển, bè vàng, bè vẫu; cũng đã chủ động sản xuất giống nhân tạo. Khả năng thích nghi với thức ăn tổng hợp kém, FCR cao. Ấu trùng mới nở có cỡ miệng nhỏ, tốc độ tăng trưởng chậm. Phần lớn nuôi lồng trên biển. Nhóm này phụ thuộc vào thức ăn tươi trong nuôi thương phẩm nên quy mô nuôi phụ thuộc lớn vào nguồn cung và giá cá tạp.  

Nhóm cá ăn tạp gồm có cá dìa, nâu, măng, đối mục, đục bạc, bống bớp, tai bồ; nguồn giống chủ yếu tự nhiên, chỉ số ít sản xuất nhân tạo. Thức ăn tự nhiên kết hợp thức ăn tổng hợp. Khả năng thích nghi với nuôi lồng kém. Kích thước thương phẩm nhỏ, nhu cầu dinh dưỡng thấp nên giá thức ăn trung bình. Giá trị xuất khẩu thấp. Chủ yếu nuôi ghép hoặc nuôi đơn trong ao đất. Có thể phát triển nuôi ghép với tôm, cua để tận dụng thức ăn. 

Hình thức nuôi đa dạng 

Nuôi lồng gỗ là phổ biến nhất. Lồng gỗ hình vuông, kích thước 3 x 3 x 3m hoặc 8 x 8 x 6m đặt trong các eo, vịnh kín gió, vùng biển gần bờ. Cho ăn bằng tay với thức ăn công nghiệp hoặc cá tạp. Đối tượng nuôi chủ yếu là nhóm cá dữ cho năng suất trung bình 7 – 12 kg/m3 với hệ số FCR cao: 2 – 2,5. Lồng gỗ khả năng chống chịu sóng gió kém nên khó mở rộng vùng nuôi và chịu tác động nước thải ven bờ: nước sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp. 

Nuôi lồng vuông bằng nhựa HDPE hoặc composite, có khả năng chống chịu sóng tốt hơn lồng gỗ nhưng đòi hỏi bảo trì đúng cách, chi phí còn cao. 

Lồng nuôi cáLồng cá với chất liệu hiện đại mang lại hiệu quả hơn

Nuôi lồng tròn vật liệu HDPE với hệ thống nhiều lồng, sản lượng nuôi cao; kiểm soát môi trường, cho ăn tự động; khả năng chống chịu sóng tốt, có thể nuôi ở các vùng biển hở. Sử dụng trong nuôi cá chẽm, chim vây vàng, hồng Mỹ, bớp. Đòi hỏi cơ sở hậu cần tốt, kỹ thuật vận hành chuyên nghiệp với chi phí đầu tư cao. Sử dụng thức ăn công nghiệp, chủ động sản xuất giống nhân tạo; nuôi được mật độ cao, dễ fillet, tiềm năng xuất khẩu tốt. 

Nuôi ao đơn loài với ao đất hoặc ao lót bạt; quy mô công nghiệp đã được áp dụng với cá chẽm, hồng Mỹ; mật độ 2 – 7 con/m2, nuôi 8 – 12 tháng, sử dụng thức ăn viên nổi có hệ số FCR < 1,7 và năng suất 15 – 50 tấn/ha. Còn nuôi ao kết hợp đa loài áp dụng với các đối tượng ăn tạp; kết hợp các loài cá biển ăn mùn bã hữu cơ với giáp xác, thực vật như cá bống bớp với rong câu; cá nâu với cua, tôm giúp tận dụng nguồn thức ăn và tầng nước. 

Hạn chế trong nuôi và sản xuất giống  

Như trên cho thấy, nuôi chủ yếu trong lồng gỗ từ 27 – 250 m3 ở các vịnh, vùng ven bờ, hoặc trong ao đất. Thức ăn là cá tạp vẫn sử dụng trong nuôi cá bớp, bè vẫu, sủ đất; với thức ăn công nghiệp có phát triển cho nuôi cá chim vây vàng, chẽm, hồng Mỹ, mú. Phòng trị bệnh cho cá chủ yếu sử dụng kháng sinh. Năng suất trung bình từ 7 – 12kg/m3. Còn lồng tròn bằng vật liệu HDPE đã sử dụng từ năm 2004, tăng sản lượng nuôi lên 10 – 15 tấn/lồng với cá chim và tới 300 tấn/lồng với cá chẽm; tuy nhiên, đòi hỏi chi phí đầu tư cao, thiết kế và vận hành phức tạp nên số lượng chưa nhiều. 

Về sản xuất giống, cá bố mẹ chủ yếu được nuôi vỗ trong lồng ngoài biển, bên cạnh có một số được nuôi trong ao như cá hồng Mỹ hay trong bể như cá mú. Thức ăn là cá tạp tươi, bổ sung thêm tôm mực. Hormone sử dụng là HCG và LHRH-A. Hoạt động nuôi vỗ, cho đẻ mang tính tự phát, thiếu sự quản lý. Mô hình ương có bể ương trong các trại giống, trong ao bạt, và lồng đặt trong ao đất. Thức ăn sử dụng là luân trùng, copepoda, artemia, thức ăn tổng hợp, cá tươi. Sử dụng nhiều nước và nước thải phần lớn không được xử lý trước khi xả ra môi trường. 

Thực trạng sản xuất giống và nuôi như trên còn có nhiều hạn chế. Đó là, quản lý chất lượng đàn cá bố mẹ kém khiến suy giảm chất lượng giống, thiếu đầu tư cho nuôi vỗ cá bố mẹ. Nguồn gốc cá bố mẹ không được kiểm soát tốt nên cá giống xảy ra tình trạng cận huyết, giảm chất lượng, thấy rõ ở cá mú lai, chim vây vàng. Còn trứng và giống cá mú lai, cá chim vây vàng nhập lại tiềm ẩn nguy cơ nhiễm bệnh. Trại giống sử dụng tài nguyên nước rất lớn và chủ yếu xả thải trực tiếp ra biển nên tiềm ẩn nhiều nguy cơ. 

Giá thức ăn liên tục tăng (10 – 15% giai đoạn 2020 – 2023). Không có thức ăn phù hợp cho một số đối tượng như cá bớp, cá bè vẫu, cá sủ đất. Phần lớn nuôi trong lồng gỗ đặt tại vùng biển ven bờ, trình độ kỹ thuật hạn chế nên dễ phát sinh dịch bệnh và gây ô nhiễm môi trường. 

Lồng nuôiChủ động nguồn giống chất lượng tốt cho nuôi biển đa dạng hóa đối tượng

Hướng phát triển bền vững nuôi cá biển  

Cần có chính sách, quy hoạch vùng nuôi. Khi biển được quy hoạch vùng nuôi, thì đi liền là chính sách sử dụng mặt nước, chính sách về vốn, bảo hiểm. Phát triển thị trường, đa dạng hóa sản phẩm từ cá biển để mở rộng thị trường xuất khẩu. Tăng tính liên kết trong hoạt đông sản xuất giống – nuôi thương phẩm – tiêu thụ sản phẩm. 

Phát triển thức ăn công nghiệp cho các đối tượng cá biển quan trọng như cá mú, bớp, bè, sủ đất và kiểm soát tốt chất lượng để đáp ứng nuôi công nghiệp xa bờ, giảm khai thác nguồn lợi thủy sản tự nhiên, giảm tác động với môi trường nuôi. Hoàn thiện kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo theo hướng giảm phụ thuộc vào copepod, thức ăn tươi trong ương giống. Chủ động nguồn giống chất lượng tốt cho nuôi biển đa dạng hóa đối tượng. 

Nghiên cứu cải tiến kỹ thuật nuôi, từ quản lý cá bố mẹ, kỹ thuật ương giống, vận chuyển cá giống, cho ăn, kỹ thuật thu hoạch đến sơ chế sau thu hoạch. Nghiên cứu vật liệu mới và ứng dụng trong thiết kế lồng nuôi; quan tâm một số dạng lồng nuôi ở vùng biển mở, có độ sâu lớn. 

Nghiên cứu nâng cao miễn dịch qua con đường sinh học, tối ưu chế độ làm giàu thức ăn sống, chất dinh dưỡng để nâng cao khả năng thích ứng của cá con với nhiệt độ cao. Sử dụng các chất có hoạt tính sinh học cao để nâng cao khả năng miễn dịch ở cá, qua đó giảm sử dụng chất kháng sinh trong phòng trị bệnh.  

Đặc biệt là xây dựng các mô hình nuôi thân thiện. Gồm có nuôi ghép nhiều đối tượng, kết hợp giữa các loài với tập tính ăn khác nhau để tận dụng nguồn thức ăn trong hệ thống. Nhất là áp dụng với nuôi cá biển trong ao: nuôi cá với tôm; nuôi cá với trồng rong câu; nuôi cá kết hợp với trồng rong, thân mềm. 

Đăng ngày 18/10/2024
Sáu Nghệ @sau-nghe
Góc nhìn

Khảo sát về tình hình nuôi trồng thủy sản hậu đại dịch

Chúng tôi xin phép gửi đến quý bà con thực hiện khảo sát phần quà nhỏ là 10.000VND card điện thoại như một lời cảm ơn chân thành, kính mong quý bà con giúp đỡ.

khảo sát thủy sản
• 17:21 24/02/2022

Tép Bạc tròn 10 tuổi

Tép Bạc kỷ niệm 10 năm thành lập (22/02/2012 - 22/02/2022).

Thủy sản Tép Bạc
• 21:38 22/02/2022

22/02/2022 NGÀY VÀNG - NGÀN ƯU ĐÃI

Còn chần chờ gì nữa mà không vào chọn sản phẩm rồi bỏ vào giỏ hàng ngay, đến 22-23/02 bấm mua hàng thì sản phẩm sẽ đến tay bạn thật sớm dù bạn ở gần hay xa.

tepbac eshop
• 09:51 22/02/2022

Chi cục thủy sản Hà Nội gửi thư mời tham dự Hội thảo miễn phí

Thư mời tham gia Hội thảo "Phát huy hiệu quả của chuyển đổi số trong Nuôi trồng thủy sản" do Chi cục thủy sản Hà Nội và công ty Tép Bạc phối hợp tổ chức.

Hội thảo thủy sản
• 01:33 21/02/2022

Kinh tế tuần hoàn chuyển đổi xanh với ngành tôm

Tương lai là kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh và đó cũng là tương lai bền vững cho ngành thủy sản bởi giải quyết được những thách thức lớn toàn cầu: Biến đổi khí hậu, nguồn nước, thương mại…

Ao tôm
• 09:00 02/12/2025

Thủy sản 10 tháng và vấn đề quản lý dịch bệnh

Trong 10 tháng đầu năm 2025, nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản Việt Nam tăng khá, tuy nhiên vẫn đối diện nhiều dịch bệnh và chuyên gia ở Phòng Quản lý bệnh thuỷ sản của Cục Thuỷ sản và Kiểm ngư đề xuất giải pháp quản lý.

Ao tôm
• 09:00 12/11/2025

Nuôi trồng thủy sản bền vững với 5 giải pháp

Xu thế toàn cầu hiện nay, nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững phải bảo vệ nguồn lợi và sức khỏe người tiêu dùng. Việt Nam với các cơ hội và thách thức điển hình để đạt mục tiêu đó, chuyên gia ở Cục Thủy sản và Kiểm ngư nêu 5 giải pháp chính.

Ao tôm
• 10:00 05/11/2025

Tái định vị xuất khẩu thủy sản: Phân tích các thị trường tiềm năng ngoài Mỹ

Thị trường Mỹ, vốn từ lâu là "cửa ngõ" xuất khẩu lớn nhất của thủy sản Việt Nam, đang ngày càng trở nên khó lường với các rào cản thuế quan và sự cạnh tranh gay gắt. Trước bối cảnh đó, việc đa dạng hóa thị trường không còn là một lựa chọn, mà đã trở thành một chiến lược sống còn để đảm bảo sự phát triển bền vững cho toàn ngành.

Ngành thủy sản Việt Nam đang đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để đảm bảo sự phát triển bền vững
• 09:00 01/10/2025

VNF Infographic Series: Chitosan – Ứng dụng kháng khuẩn/nấm

Trong bài infographic trước, chúng ta đã khám phá cách chitosan thể hiện tính kháng khuẩn/nấm hiệu quả của mình thông qua các cơ chế như tương tác với điện tích âm, phá vỡ màng tế bào vi sinh vật và thay đổi môi trường sống của chúng, khiến chúng không thể phát triển.

Ứng dụng của Chitosan
• 21:06 11/12/2025

Rong biển Việt Nam: “Kho báu” của đại dương xanh

Việt Nam ghi nhận hơn 800 loài rong, trong đó nhiều nhóm có giá trị kinh tế như rong nho, rong sụn, rong câu chỉ vàng. Đây là nền tảng giúp Việt Nam tạo ưu thế cạnh tranh khi so sánh với các đối thủ trong cùng khu vực.

Rong biển
• 21:06 11/12/2025

Cá lau kiếng có thực sự ăn được?

Với vẻ ngoài xù xì và tập tính ăn tạp, cá lau kiếng thường bị xem là loài cá "bẩn" và không thể ăn được. Tuy nhiên, sự thật lại phức tạp hơn nhiều. Về bản chất, thịt cá lau kiếng không hề độc, nhưng lý do nó không trở thành món ăn phổ biến lại nằm ở những nguy cơ tiềm ẩn khác.

Cá lau kiếng
• 21:06 11/12/2025

Thủy sản Việt Nam thu gần 1,6 tỷ USD nhờ xuất khẩu sang thị trường khắt khe bậc nhất thế giới

Bất chấp bối cảnh kinh tế Nhật Bản đang đối mặt nhiều khó khăn, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này vẫn ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng 11% trong 11 tháng đầu năm.

Thủy sản
• 21:06 11/12/2025

Cứ 4 cua hoàng đế xuất sang châu Á, người Việt tiêu thụ 1 con

Một thống kê ấn tượng từ Hội đồng Hải sản Na Uy (NSC) cho thấy, Việt Nam đã vươn lên trở thành thị trường tiêu thụ cua hoàng đế đỏ tươi sống lớn thứ hai tại châu Á. Nhu cầu ngày càng cao đối với hải sản cao cấp đang biến Việt Nam thành một "mỏ vàng" đầy tiềm năng.

Cua hoàng đế
• 21:06 11/12/2025
Some text some message..