Ở cá, các tuyến phòng thủ không đặc hiệu chính là da và chất nhờn được hỗ trợ bởi một số yếu tố hòa tan, chẳng hạn như hoạt động của các chất bổ sung và lysozyme. Việc sử dụng thảo dược trong nuôi trồng thủy sản đã được nghiên cứu rộng rãi, cho thấy tiềm năng to lớn của chúng trong việc tăng cường khả năng tăng trưởng, khả năng miễn dịch và khả năng chống lại các bệnh nhiễm vi khuẩn. Thảo dược có tác dụng tích cực do chứa các thành phần như polysaccharid, tannin, sắc tố, steroid, terpenoid, flavonoid, hợp chất phenolic, axit hữu cơ, ancaloit, glycosid và tinh dầu có tác dụng kích thích miễn dịch để điều trị các bệnh khác nhau trên cá và kiểm soát nhiễm trùng, ví dụ như bệnh nhiễm trùng huyết do vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây ra.
Oregano chiết xuất từ lá kinh giới (Origanum vulgare) được ghi nhận là chứa hàm lượng tinh dầu cao từ 0,15 đến 1% với thành phần chính là carvacrol (40 đến 70% tùy thuộc vào nguồn gốc), các flavonoid như naringin và các hợp chất phenolic. Nó thường được sử dụng làm thuốc cho người để điều trị các rối loạn dạ dày, dị ứng đường hô hấp, tiểu đường và chữa lành vết thương và như một loại thuốc an thần. Ngoài các nghiên cứu in vivo ở cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) và cá chẽm đầu vàng (Sparus aurata), oregano đã được chứng minh là thể hiện các hoạt động kháng nấm, chống oxy hóa và kháng khuẩn trong ống nghiệm. Các tác giả đã cho rằng các hoạt động sinh học này của cây là do hàm lượng cao các hợp chất phenolic có trong tinh dầu oregano.
Thí nghiệm này được thực hiện để đánh giá tác dụng của tinh dầu origanum (OEO) đối với năng suất tăng trưởng, chất chống oxy hóa, khả năng kích thích miễn dịch và đề kháng lại vi khuẩn Aeromonas hydrophila gây ra trên cá chép.
Oregano chiết xuất từ lá kinh giới (Origanum vulgare) được ghi nhận là chứa hàm lượng tinh dầu cao từ 0,15 đến 1%.
Thí nghiệm bao gồm 5 nghiệm thức bổ sung tinh dầu origanum (OEO), chiết xuất từ lá kinh giới với các nồng độ 0, 5, 10, 15 và 20 g/kg thức ăn trong vòng 8 tuần. Sau đó các nghiệm thức được cảm nhiễm với vi khuẩn Aeromonas hydrophila để đánh giá khả năng đáp ứng miễn dịch và đánh giá tỷ lệ sống của cá chép.
Sau 8 tuần, chế độ ăn bao gồm OEO làm tăng đáng kể hoạt động của superoxide dismutase và catalase ở gan (P <0,05); trong khi đó, mức độ malonaldehyde trong gan giảm đáng kể (P <0,05). Mức độ hoạt động lysozyme huyết thanh, hoạt động thực bào và chỉ số thực bào đã được tăng tuyến tính trong chế độ ăn và cho thấy mức cao nhất của chúng trong chế độ ăn 15–20 g OEO/kg.
Hơn nữa, OEO trong chế độ ăn đã điều chỉnh đáng kể sự biểu hiện tương đối của các gen interleukin-1beta (IL-1β ), interleukin-10 ( IL-10 ) ở gan (P <0,05) và đạt giá trị cao trong chế độ ăn 15–20 g OEO/kg.
OEO trong chế độ ăn uống duy trì cấu trúc mô học bình thường của các mô lá lách và thận trước của cá.
Sau thử thách với vi khuẩn gây bệnh Aeromonas hydrophila, tỷ lệ tử vong tích lũy trong 10 ngày giảm đáng kể (P <0,05); trong khi đó, tỷ lệ sống sót tương đối của cá chép tăng lên khi sử dụng OEO (P <0,05) phụ thuộc vào liều lượng. Nghiệm thức bổ sung 20 g OEO/kg cho thấy tỷ lệ sống cao nhất hơn đạt hơn 70%.
Các kết quả thu được phản ánh vai trò có lợi của OEO trong chế độ ăn để tăng cường tình trạng chống oxy hóa và các phản ứng miễn dịch ở cá chép với mức tối ưu là 20 g/kg chế độ ăn.
Sử dụng tinh dầu thảo dược trong thức ăn thủy sản là một cách tiếp cận quan trọng để duy trì tình trạng sức khỏe của cá, tăng cường khả năng miễn dịch, đề kháng bệnh và đặc biệt góp phần thay thế kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản.
Nguồn: Hany M.R.Abdel-Latif et al (2020). Dietary origanum essential oil improved antioxidative status, immune-related genes, and resistance of common carp (Cyprinus carpio L.) to Aeromonas hydrophila infection, ScienceDirect, Fish & Shellfish Immunology, 08/2020.