Giải pháp phát triển ngành tôm trong tình hình mới
Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết: Năm 2021, ngành tôm tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như hạn hán, xâm nhập mặn; thời tiết khí hậu bất thường, tiềm ẩn rủi ro, nguy cơ phát sinh dịch bệnh; diễn biến dịch Covid-19 và cạnh tranh thương mại quốc tế khó lường.
6 tháng đầu năm 2021, sản lượng tôm giống ước đạt 55 tỷ con; trong đó, tôm thẻ chân trắng là 40,7 tỷ con, tôm sú 14,3 tỷ con (bằng 109% so với cùng kỳ năm 2020). Về kết quả nuôi tôm thương phẩm và xuất khẩu, sản lượng tôm nước lợ đạt 371 nghìn tấn (tăng 12% so với cùng kỳ năm 2020), trong đó sản lượng tôm sú đạt 113 nghìn tấn, tôm thẻ chân trắng đạt 258 nghìn tấn. Ước kim ngạch xuất khẩu tôm trong 6 tháng qua đạt 1,5 tỷ USD; trong đó, tôm sú đạt 200 triệu USD, tôm thẻ chân trắng đạt 1,3 tỷ USD.
Ông Phùng Đức Tiến - Thứ trưởng Bộ NN&PTNT và ông Trần Đình Luân – Tổng cục trưởng Tổng cục thủy sản chủ trì Hội nghị.
Riêng 1-2 tháng gần đây, tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp tại các tỉnh phía Nam, dẫn đến giá tôm nguyên liệu giảm và khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, dự báo, các tháng cuối năm, xuất khẩu tôm của Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng tốt do nhu cầu nhập khẩu tăng và các lợi thế từ các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới đem lại.
Do vậy, ngành tôm vẫn đặt mục tiêu duy trì ổn định diện tích nuôi tôm nước lợ là 740 nghìn ha, trong đó tôm sú là 630 ha, tôm thẻ là 110 ha, sản lượng đạt 980 nghìn tấn, phấn đấu kim ngạch xuất khẩu tôm đạt 3,8-4 tỷ USD.
Trước những khó khăn do những diễn biến khó lường của thời tiết, dịch bệnh, để đạt được mục tiêu trên giải pháp trọng tâm được ngành Nông nghiệp đưa ra là:
- Siết chặt công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 trong các nhà máy, xí nghiệp chế biến thủy sản
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm ưu tiên nuôi tôm công nghệ cao, tôm sinh thái.
- Tăng cường công tác quan trắc, cảnh báo môi trường các vùng nuôi tôm tập trung để kịp thời đưa ra khuyến cáo và cảnh báo nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại cho người nuôi.
- Tiếp tục quản lý chặt chẽ chất lượng tôm giống, vật tư thủy sản.
- Tích cực phối hợp xử lý, tháo gỡ các rào cản kỹ thuật, phát triển thị trường tiêu thụ cho sản phẩm tôm Việt Nam.
Triển khai Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2045
Tại Hội nghị, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cũng yêu cầu các địa phương nắm chắc, bám sát quan điểm, định hướng, mục tiêu của Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 để chỉ đạo, phát triển sản xuất thủy sản tại địa phương theo đúng định hướng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đề ra.
Chỉ tiêu chủ yếu phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030
a. Tốc độ tăng trưởng giá trị thủy sản đạt 3,0 - 4,0%/năm.
b. Tổng sản lượng thủy sản sản xuất trong nước đạt 9,8 triệu tấn; trong đó đó sản lượng nuôi khi trồng thủy sản 7,0 triệu tấn, sản lượng khai thác thủy sản 2,8 triệu tấn.
c. Giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 14 đến 16 tỉ USD.
d. Giải quyết việc làm cho trên 3,5 triệu lao động, có thu nhập bình quân đầu người lao động thủy sản tương đương thu nhập bình quân trung lao động cả nước. Xây dựng các làng cá ven biển, đảo thành các cộng đồng dân cư văn minh có đời sống văn hóa tinh thần đậm đà bản sắc riêng gắn với xây dựng nông thôn mới.
Để thực hiện “mục tiêu kép” của ngành thủy sản, bao gồm ngành tôm, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho rằng, mục tiêu đầu tiên là cần cố gắng là duy trì tốt sản lượng, cung cấp nguyên liệu có chất lượng cao cho chế biến. Đây là yếu tố quan trọng vì lĩnh vực thủy sản dễ bị tác động bởi thời tiết, đặc biệt trong tình hình hạn hán, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu như hiện nay và sự cạnh tranh khốc liệt tại các thị trường nhập khẩu.
Mục tiêu tiếp theo là xử lý các vấn đề tồn tại trong chuỗi liên kết như tổ chức sản xuất, chế biến, chiến lược duy trì và phát triển thị trường. Đồng thời, chiến lược đề ra thống nhất hành động trong 3 trục (chính phủ, doanh nghiệp, người dân) để quyết tâm xây dựng ngành tôm thành một ngành hàng lợi thế, mang lại giá trị cao nhất và có tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế.