Tuy nhiên, con cá tra của VN đang phải cạnh trực tiếp với các loại cá thịt trắng khác khai thác từ biển như: cá pollock, các tuyết… Nhưng những quy của NĐ/36/2014NĐ-CP (NĐ 36) về nuôi, chế biến và XK sản phẩm cá tra quy định: độ ẩm của cá tra filler XK không vượt quá 86%, thay vì 83% như hiện nay; tỷ lệ mạ băng sản phẩm cá tra bằng quy định ghi nhãn bắt buộc, trọng lượng tịnh trên bao bì. Hay việc quản lý hồ sơ và cung cấp đầy đủ, chính xác các giấy tờ liên quan khi lô hàng XK được chế biến từ nguyên liệu của nhiều ao nuôi, trại nuôi khác nhau. Các mặt hàng XK chế biến từ phụ phẩm cá tra như: bột cá, dầu cá, bao tử cá… phụ phẩm XK sang thị trường khác nhau. Việc quy định đăng ký hợp đồng XK cá tra vô tình đã can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân, tổ chức đã tạo thêm hành chính hóa trong quan hệ kinh tế, hay nói cách khác là lại tạo ra cơ chế “xin cho”. Việc quy định giá sàn thu mua nguyên liệu cũng đang vi phạm pháp luật cạnh tranh, theo đó các nhóm DN, hiệp hội không được phép thỏa thuận ấn định một mức giá cố định. Quy định về giá sàn nguyên liệu cá tra của nghị định này đang trái với các văn bản pháp luật cấp cao hơn, cụ thể là Luật giá và Luật cạnh tranh.
Để gỡ khó cho con cá tra XK chúng ta cần sớm bỏ những thủ tục quy định về giá sàn nguyên liệu cá tra; bãi bỏ thủ tục đăng ký hợp đồng XK cá tra qua Hiệp hội cá tra VN, mà xem xét thay vào đó là cơ chế chứng nhận các lô nguyên liệu từ các cơ quan quản lý và người tiêu dùng địa phương theo đúng cách tiếp cận về đăng ký, cấp phép ao, vùng nuôi của nghị định này.