Tin vui ngành xuất khẩu thủy sản tháng 7
Trong tháng 7/2024, xuất khẩu (XK) tất cả các sản phẩm thủy sản chủ lực của Việt Nam đều có sự tăng trưởng khởi sắc. Cụ thể, xuất khẩu tôm tăng 11%, mức tăng trưởng cao nhất trong 7 tháng đầu năm.
Trong đó, xuất khẩu tôm sang các thị trường chủ chốt như Trung Quốc và EU tăng mạnh lần lượt 24% và 32%. Xuất khẩu tôm sang Mỹ tăng 9% và sang Nhật Bản tăng 4%, trong khi xuất khẩu sang Hàn Quốc giảm 21%.
Tính đến cuối tháng 7/2024, lũy kế xuất khẩu tôm đạt gần 2 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu tôm thẻ chân trắng được ghi nhận đạt 1.45 tỷ USD, tăng 4%, tôm sú đạt 246 triệu USD, giảm 10%. Đặc biệt, xuất khẩu tôm hùm tăng gần gấp 3 lần, đạt 145 triệu USD.
Sự tăng trưởng này phản ánh sự phục hồi và tiềm năng lớn của ngành thủy sản Việt Nam, đặc biệt là tôm, trong bối cảnh thị trường quốc tế có nhiều biến động.
Một số mặt hàng xuất khẩu phổ biến
Trong tháng 7/2024, xuất khẩu cá tra của Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng 23%, đánh dấu sự phục hồi mạnh mẽ. Xuất khẩu cá tra sang tất cả các thị trường chính đều tăng trưởng từ 20 - 40%, trừ thị trường EU chỉ tăng nhẹ 5%.
- Lũy kế 7 tháng đầu năm, XK mặt hàng cá tra đã đạt gần 1.09 tỷ USD, tăng 7.7% so với cùng kỳ năm ngoái. Trung Quốc vẫn dẫn đầu là thị trường chính, với giá trị xuất khẩu đạt 317 triệu USD, giảm 2.3% so với năm 2023.
- Thị trường Trung Quốc chủ yếu tiêu thụ cá tra cỡ lớn >1,2 kg/con dạng nguyên con hoặc sản phẩm phile, đồng thời là điểm đến quan trọng cho bong bóng cá tra, với xuất khẩu bong bóng cá tra đạt khoảng 50 triệu USD, trong đó 40 triệu USD xuất sang Trung Quốc.
Xuất khẩu cá tra đạt 1.09 tỷ USD. Ảnh: tapchicongthuong.vn
Xuất khẩu cá ngừ trong tháng 7 tăng chậm lại, chỉ tăng 9% so với cùng kỳ năm ngoái, trong khi lũy kế 7 tháng đầu năm đạt 555 triệu USD, tăng 21%. Tuy nhiên, nghị định 37/2024, có hiệu lực từ 19/5/2024, yêu cầu cá ngừ vằn khai thác phải đạt kích cỡ tối thiểu 0.5 mét đã gây khó khăn cho doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá ngừ.
Nhiều doanh nghiệp đã ngừng thu mua nguyên liệu cá vằn do không đáp ứng kích cỡ quy định, và các cảng cá cũng ngừng xác nhận nguyên liệu cho các lô hàng. VASEP đã kiến nghị sửa đổi Nghị định 37 và yêu cầu doanh nghiệp tuân thủ quy định IUU trong thời gian chờ sửa đổi.
Các sản phẩm thủy sản khác như mực, bạch tuộc và các loại cá biển cũng đang gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu để xuất khẩu, với xuất khẩu các loại cá biển khác giảm hơn 4% trong 7 tháng đầu năm, và xuất khẩu mực, bạch tuộc đạt khoảng 351 triệu USD, tương đương cùng kỳ năm 2023.
Điểm danh một số thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Các thị trường chính có sự hồi phục nhu cầu rõ rệt bao gồm:
- Trung Quốc & Hồng Kông: Tăng 30%
- Mỹ: Tăng 14%
- Nhật Bản: Tăng 11%
- EU: Tăng 14%
Lũy kế 7 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang các thị trường này ghi nhận:
- Mỹ và Trung Quốc – Hồng Kông: Đều tăng 10% và chiếm gần 18% tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, đạt trên 930 triệu USD.
- EU: Tăng 10%, đạt trên 600 triệu USD.
- Hàn Quốc: Tăng nhẹ 1%, đạt 426 triệu USD.
Trong nửa cuối năm, Mỹ và EU dự kiến sẽ là các thị trường kỳ vọng cho phân khúc sản phẩm đông lạnh nhờ vào sự hồi phục kinh tế và các yếu tố tích cực khác như giảm lạm phát và lãi suất. Ngược lại, xuất khẩu hàng đông lạnh sang Trung Quốc vẫn chưa đột phá với giá thấp, nhưng Trung Quốc tiếp tục là điểm đến chính cho các sản phẩm thủy sản tươi sống như tôm hùm, cua, ngao, ốc.