Ảnh hưởng của các nguồn carbon khác nhau trong hệ thống biofloc

Các nguồn carbon hữu cơ khác nhau sử dụng trong hệ thống biofloc có thể làm giảm nồng độ ammonia-nitrogen và cải thiện sự đa dạng của cộng đồng đối với các vi khuẩn.

Ảnh hưởng của các nguồn carbon khác nhau trong hệ thống biofloc
Công nghệ Biofloc tại Ifremer, Tahiti (A), trang trại Sopomer, Tahiti (B), Trung tâm Nuôi trồng Cá biển Waddell (C) và Israel (D). Ảnh internet.

Vai trò nguồn carbon trong hệ thống biofloc

Việc bổ sung các nguồn carbon vào hệ thống nhằm “tăng cường” hoặc thêm nguồn carbon hữu cơ kích thích sự hình thành floc và đảm bảo tỉ lệ C/N trên 10 (De Schryver et al., 2008)

Bổ sung nguồn carbon hữu cơ được sử dụng bởi các vi khuẩn để chuyển đổi nitơ dư thừa trong sinh khối vi sinh vật tại các bể sản xuất. Nguồn carbon đóng vai trò là chất nền để vận hành hệ thống và sản xuất các tế bào protein vi sinh vật.

Các nguồn carbon được áp dụng trong hệ thống biofloc thường là các sản phẩm phụ từ ngành công nghiệp thực phẩm cho người, các nguồn cung cấp carbohydrate rẻ tiền như mật đường, glyxerol và các loại thực vật (như lúa mỳ, ngô, gạo, khoai mì, vv)

Nguồn carbon

Loài nuôi

Axetat

Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii)

Bột sắn

Tôm sú (Penaeus monodon)

Cellulose

Tilapia (cá rô phi)

Bột ngô

Hybrid bass / hybrid tilapia

Dextrose

Tôm thẻ (Litopenaeus vannamei)

Glycerol và Glycerol +Bacillus

Tôm càng xanh (M. rosenbergii)

Glucose

Tôm càng xanh (M. rosenbergii)

Mật đường

Tôm thẻ (L. vannamei) and tôm sú (P. monodon)

Bột miến

Cá rô phi

Bột báng

Tôm thẻ (L. vannamei) and Tôm càng xanh (M. rosenbergii)

Bột mì

Cá rô phi (O. niloticus)

Các nguồn Carbon khác nhau được sử dụng trong hệ thống biofloc do Miodrag Darko Matovic biên soạn

Một nghiên cứu mới đây chứng minh rằng nguồn carbon trong hệ thống biofloc sẽ ảnh hưởng đến mật độ vi khuẩn có lợi giúp giảm nồng độ khí độc trong ao. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là khảo sát ảnh hưởng của các nguồn carbon khác nhau đối với chất lượng nước, cộng đồng vi sinh vật và cấu trúc của hệ thống nuôi tôm bằng biofloc.

Thử nghiệm ảnh hưởng của nguồn carbon khác nhau lên hệ thống biofloc

Thử nghiệm bao gồm ba hệ thống biofloc sử dụng các nguồn carbon khác nhau: tinh bột sắn (tinh bột khoai mì) , cellulose thực vật (PC) và sự kết hợp của tinh bột khoai mì và cellulose thực vật (TS + PC).

Nghiên cứu được tiến hành trong 42 ngày trong 12 thùng chứa vật liệu nhựa (FRP) có thể tích 300L. Được tiến hành với hệ thống nuôi loài cá (Pelteobagrus vachelli) có trọng lượng trung bình (38,1 ± 5,9 g) được phân bố ngẫu nhiên thành mười hai bể.

Các đặc tính cộng đồng vi khuẩn và vi khuẩn oxy hóa ammonia trong tất cả các nghiệm thức đã được phân tích  bằng Illumina MiSeq sử dụng các đoạn gen 16R rRNA khuyếch đại PCR

Kết quả:

Nguồn Carbon

TS

PC

TS + PC

Đối chứng

Nồng độ ammonia-nitrogen

2,4 ± 2,9 mg L-1

1,8 ± 2,4 mg L-1

2,2 ± 2,5 mg L-1

3,6 ± 4,6 mg L-1

Tỷ lệ tăng trọng trong TS (tinh bột khoai mì) cao hơn đáng kể so với nhóm chứng ( P  <0,05), trong khi không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm đối chứng và các nhóm đã cho thêm cellulose thực vật (PC và TS + PC) ( P  > 0,05).Kết quả cho thấy nồng độ amoniac-nitơ trong nhóm đối chứng (3,6 ± 4,6 mg L - 1 ) cao hơn so với 3 hệ thống biofloc còn lại của thí nghiệm.

Kết quả phân tích Illumina MiSeq cho thấy các hệ thống biofloc sử dụng nguồn carbon cellulose thực vật có mật độ vi khuẩn cao và đa dạng hơn so với nhóm không sử dụng cellulose thực vật ( P <0,05).

Sự gia tăng đáng kể của vi khuẩn trong việc kiểm soát và điều trị TS, trong khi nhóm Alphaproteobacteria cao hơn trong nhóm điều trị bổ sung cellulose thực vật ( P  <0,05).

Phân tích trình tự Illumina của vi khuẩn oxy hóa ammonia cũng phát hiện cộng đồng vi khuẩn có sự đa dạng cao hơn trong các hệ thống biofloc còn lại.

Kết luận:

Cellulose thực vật tốt hơn tinh bột sắn để cải thiện sự đa dạng vi khuẩn trong hệ thống biofloc. Cellulose thực vật có thể cải thiện tỷ lệ của nhóm vi khuẩn Alphaproteobacteria, trong khi đó khoai mì có thể cải thiện nhóm Betaproteobacteria. Cả tinh bột sắn và cellulose thực vật đều có thể cải thiện sự đa dạng của vi khuẩn amoniac trong hệ thống biofloc.

Theo: Min Denga, Jieyu Chena, Jie Houa, Dapeng Lia, Xugang He 

Đăng ngày 24/09/2017
VĂN THÁI Lược dịch
Kỹ thuật

Một số vấn đề cần biết về sử dụng prebiotic trong nuôi tôm

Trong nuôi tôm, gần đây hay nhắc đến Prebiotic là một thành phần được lên men có chọn lọc dẫn đến những thay đổi đặc biệt về hoạt động của hệ vi sinh vật đường tiêu hóa, mang lại lợi ích cho sức khỏe của tôm.

Lợi khuẩn
• 11:26 11/02/2025

Kiếm soát bệnh vàng mang trên tôm

Bệnh vàng mang hay còn gọi là bệnh đầu vàng (YHD - Yellow Head Virus), bệnh nhiễm giới hạn trên các loài tôm he, trong đó có tôm sú và tôm chân trắng. Bệnh thường bộc phát trên tôm nuôi từ 30 ngày tuổi trở lên, đặc biệt là khi thời tiết thay đổi thất thường. Hiện bệnh chưa có thuốc điều trị cũng như phương pháp tiêm chủng hữu hiệu, gây nhiều khó khăn cho người nuôi.

Tôm bị vàng mang
• 10:01 06/02/2025

Thuần hóa tôm giống

Trong quá trình nuôi tôm, bước thuần hóa tôm giống đóng vai trò vô cùng quan trọng. Đây là giai đoạn giúp tôm giống thích nghi với môi trường ao nuôi, hạn chế tối đa sốc môi trường và các rủi ro về sức khỏe. Nếu thực hiện tốt, việc thuần hóa sẽ giúp tôm phát triển khỏe mạnh, tăng trưởng nhanh và giảm nguy cơ bệnh tật.

tôm giống
• 10:15 05/02/2025

Phân biệt và lựa chọn tôm giống chất lượng cao

Trước nhu cầu con giống tăng và sự tràn lan của nhiều cơ sở nhỏ lẻ nhập khẩu tôm bố mẹ không rõ nguồn gốc, chất lượng thấp, giá rẻ để sản xuất giống thì việc chọn giống tốt, sạch bệnh được xem là yếu tố rất quan trọng để đảm bảo thành công của vụ nuôi.

Tôm giống
• 09:52 05/02/2025

Thức ăn thực vật phù hợp cho cá Pleco

Cá Pleco, hay còn gọi là cá lau kiếng, là một loài cá rất được ưa chuộng trong bể cá cảnh. Không chỉ đóng vai trò là “người dọn dẹp” tự nhiên, cá Pleco còn mang đến vẻ đẹp độc đáo với thân hình kỳ lạ và tính cách thú vị. Để cá Pleco phát triển khỏe mạnh, chế độ ăn uống của chúng cần được chú trọng. Mặc dù Pleco có thể ăn đa dạng thức ăn, thực vật lại là một thành phần không thể thiếu trong khẩu phần của chúng.

Cá Pleco
• 01:52 12/02/2025

Tăng cường tiêu thụ nội địa: Thị trường thủy sản Việt Nam bùng nổ với cá lóc, ếch và cá nuôi biển

Trong những năm gần đây, thị trường tiêu thụ thủy sản nội địa Việt Nam đã chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể, đặc biệt là đối với các loại cá lóc, ếch và cá nuôi biển. Sự gia tăng này được thúc đẩy bởi nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, thay đổi trong thói quen ăn uống ưu tiên các sản phẩm thủy sản sạch, có nguồn gốc rõ ràng.

Chợ hải sản
• 01:52 12/02/2025

Ảnh hưởng của nấm đồng tiền đến năng suất nuôi tôm

Trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nghề nuôi tôm, bệnh nấm đồng tiền từ lâu đã trở thành thách thức lớn đối với người nuôi. Loại bệnh này không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tôm mà còn làm suy giảm sản lượng và gây tổn thất kinh tế nặng nề, đặt ra nhiều khó khăn trong việc duy trì hiệu quả sản xuất.

Nấm đồng tiền
• 01:52 12/02/2025

Phát triển nuôi cá lóc (Cá quả) chất lượng cao: Kỹ thuật nuôi ít rủi ro, tăng trưởng nhanh

Cá lóc (hay cá quả) là loài cá nước ngọt được nuôi phổ biến tại Việt Nam do giá trị kinh tế cao, tăng trưởng nhanh và đặc tính thích nghi nhanh với môi trường. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả kinh tế tối đa, người nuôi cần áp dụng kỹ thuật nuôi hiện đại nhằm giảm thiểu rủi ro, tăng tỷ lệ sống và nâng cao chất lượng cá.

Cá lóc quả
• 01:52 12/02/2025

Ứng dụng một số công nghệ hữu ích cho ngành thủy sản

Ngành thủy sản hiện nay đang áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến để cải thiện hiệu quả sản xuất, bảo vệ môi trường, và duy trì sự bền vững của các nguồn tài nguyên thủy sản.

Nuôi trồng thủy sản
• 01:52 12/02/2025
Some text some message..