Ảnh hưởng của độ mặn thấp đến tôm thẻ chân trắng

Báo cáo của Marcela G. Fregoso và cộng sự vừa đăng trên Aquaculture Research mới đây đã cho thấy bất lợi của tôm nuôi trong nước có độ mặn thấp từ những biến đổi mô bệnh học trong mang tôm thẻ chân trắng và mối liên hệ ảnh hưởng của hàm lượng khí độc trong ao khi độ mặn thấp.

Ảnh hưởng của độ mặn thấp đến tôm thẻ chân trắng
Ảnh: THKH

Nuôi tôm thẻ chân trắng (Lipopenaeus vannamei) ở môi trường có độ mặn thấp đang là xu hướng phát triển trên toàn thế giới – bởi đây là loài sinh vật rộng muối có thể chịu đựng được nước có độ mặn 5 - 45‰. Diện tích nuôi tôm ở độ mặn thấp đã tăng 106% trong thập kỷ qua với tổng sản lượng tôm toàn cầu là 720.796 tấn vào năm 2014 (FAO, 2016). Tuy nhiên không có đủ các nghiên cứu về sự thay đổi mô bệnh học trong mang tôm thẻ chân trắng L. vannamei khi nuôi ở độ mặn thấp và tiếp xúc với chất lượng nước kém.

 

Chu trình nito trong ao tôm. Ảnh minh họa: tepbac

Ammonia là một trong những hợp chất nitơ vô cơ hòa tan độc nhất và tính độc của nó phụ thuộc vào nhiệt độ, pH và độ mặn (Chien, 1992; Fr´ıas-Espericueta, Harfush-Melendez & P´aez-Osuna, 2000). Nitrite là một sản phẩm trung gian của quá trình nitrat hóa, trong đó vi khuẩn hiếu khí tự chuyển đổi ammonia thành nitrate, và hợp chất này được xem là có độc tính cao đối với tôm thẻ nuôi trong nước có độ mặn thấp (Gross, Abutbul & Zilberg, 2004). Tiếp xúc với hàm lượng cao của các hợp chất nitơ có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng, tôm ăn kém và gây thiệt hại ở cấp độ tế bào nặng hơn sẽ làm cho tôm chết hàng loạt. 

Ở cấp độ tế bào, thiệt hại ở mang tôm là đặc biệt quan trọng vì chúng được coi là cơ quan đích và có vai trò cực kỳ quan trọng với tôm. Ngoài việc giúp bài tiết các hợp chất nitơ, chủ yếu là amoniac, mang tôm còn có vai trò quan trọng các chức năng sinh lý như điều hòa ion và thẩm thấu, sự đồng hóa canxi và điều hòa pH ngoại bào (Freire, Onken & McNamara, 2008). Khi tôm được nuôi ở độ mặn thấp, một trong những thay đổi đầu tiên là sự thích ứng sinh lý để đáp ứng với những thay đổi môi trường. Tuy nhiên khi môi trường đòi hỏi một mức độ đáng kể khả năng thích ứng mà sinh vật không thể đáp ứng được, chúng sẽ biểu hiện tổn thương hoặc thay đổi ở cấp độ tế bào, được gọi là thay đổi bệnh lý (Stevens, Lowe & Young, 2003).

Ảnh hưởng của nuôi tôm ở độ mặn thấp

Nghiên cứu này nhằm theo dõi, kiểm tra và so sánh hiệu quả của nước có sự tích tụ các hợp chất nitơ)trên cấu trúc mang mô học của tôm thẻ chân trắng nuôi trong hệ thống nuôi thâm canh ở độ mặn ở độ mặn thấp (1,9 g / L) ) với mô hình không trao đổi nước giữa hai mật độ thả giống (70 con/m2 nghiệm thức M1 và 120 con / m2 Nghiệm thức M2).

Hệ thống nuôi cấy này gồm hai nghiệm thức (M1 và M2) với ba bể tròn (3,1 m3) trong mỗi bể được phủ bằng lớp lót dày 1,5 mm bằng polyethylene. Oxy được cung cấp bởi máy thổi ½-Hp để duy trì các điều kiện tối ưu. Các bể đã được đổ đầy đến 1 m với nước biển pha loãng (1,9 g / L) nước được xử lý kỹ trước khi đưa vào bể. Năm ngày trước khi thả giống, hệ thống đã được bón phân hàm lượng 10 g / bể (NPK) để thúc đẩy năng suất sinh học. Sau khi thả, nước bổ sung tương đương 1% –5% thể tích bể mỗi tuần để bù đăp nước do bay hơi.

Trước khi nuôi tôm PL 12 đã được thích nghi trong một bể (450 L) ở mật độ 4 PL / L; độ mặn ban đầu là 35 g / L, và nước ngọt được thêm vào trong khoảng thời gian 6 ngày (độ mặn 0,2 g /L) cho đến khi bể đạt độ mặn 1,9 g / L.

3 giai đoạn tổn thương mô mang trên tôm nuôi thực nghiệm đã được quan sát thấy:

Giai đoạn I (không ảnh hưởng đến chức năng cơ quan).

Giai đoạn II ( xuất hiện những tổn thương và ngày càng nghiêm trọng, chức năng cơ quan bị suy yếu) .

Giai đoạn III (những biến đổi rất nghiêm trọng về mặt cấu trúc và chức năng mà không thể chữa lành) (Bảng 1).

Bảng 1:

Trong 5 tuần nuôi đầu tiên, khi chất lượng nước vẫn tốt cho sự phát triển của tôm thì sự thâm nhiễm tế bào máu ở mức độ nhẹ đã được quan sát thấy ở tôm của cả hai nghiệm thức.

Trong nghiệm thức M1, tế bào biểu mô mang phù nề, thâm nhiễm máu và melanine (đen mang) xuất hiện ở tuần 6. Các bệnh lý trên mang cho thấy sự melanine trầm trọng xuất hiện nhiều trong mô mang, và sự hiện của chất hữu cơ và thực vật phù du gắn liền ở phiến mang từ tuần 8 cho đến khi tôm kết thúc vụ nuôi.

Trong M2, các bệnh lý tương tự đã được quan sát thấy kết hợp với hoại tử và xâm nhiễm ký sinh trùng Zoothamnium sp và vi khuẩn dạng sợi Leucothrix mucor từ tuần 9 đến 10, có liên quan đến sự hiện diện của chất hữu cơ và thực vật phù du trên phiến mang. Thiệt hại không thể khắc phục do sự suy giảm chất lượng nước tăng và sự xâm nhập của ký sinh trùng. 


Hình 3. Biến đổi mô học trong mang tôm ở những tuần cuối của chu kỳ nuôi. (A) mang xuất hiện xâm nhiễm tế bào máu (sao), (b)sự teo lại của phiến mang, và giải phóng lớp biểu bì (tam giác); (c) xâm nhập tế bào máu (sao) và sự melanine hóa – đen mang (mũi tên).

Mối liên hệ giữa khí độc và độ mặn thấp đến tôm

 

Hình 4: Sự suy giảm chất lượng nước ở những tuần cuối với sự gia tăng nồng độ amoniac và nitrit cũng làm gia tăng sự biến đổi cấu trúc mang tôm (HAI), và càng nặng hơn với tôm mật độ cao hơn.

Khi amoniac-N tăng trong tuần thứ 7, tổn thương mô mang tôm cũng tăng từ trung bình đến nặng, và trong tuần 9 và 10 khi lượng lớn chất rắn và ký sinh trùng được quan sát thấy bám trên mang thì thiệt hại cho mang trở nên không thể khắc phục và có thể gây tử vong cao (Hình 4). 

Gross et al. (2004) đề nghị kiểm soát nồng độ nitrit-N nhỏ hơn 0,45 mg / L để ngăn ngừa sự thay đổi trong quá trình trao đổi chất hoặc các ảnh hưởng đến quá trình sinh lý (tăng trưởng, hô hấp, sinh sản, bệnh tật) và coi mức độ này là an toàn cho tôm thẻ L. vannamei nuôi ở độ mặn 2ppt. Tuy nhiên trong thí nghiệm này lại cho thấy giá trị trung bình tối đa hàng tuần nitrit-N ở các nghiệm thức lớn hơn 0,91 mg / L và rõ ràng, những giá trị này vượt quá nồng độ an toàn được đề xuất do đó, nitrit trong nước cũng góp phần vào sự gián đoạn của các quá trình sinh lý trên mang tôm.

Nghiên cứu này cho thấy có mối tương quan đáng kể (p <0,05 giữa các hợp chất nitơ và thay đổi trong mang. Khi nồng độ amoniac, nitrit và nitrate tăng lên thì sự thay đổi lớn hơn được ghi nhận trong mang. Điều này rõ ràng cho thấy sự nhạy cảm của mang với sự hiện diện của các hợp chất nitơ trong vùng biển có độ mặn thấp.

Tôm tiếp xúc với stress do độ mặn thấp có khả năng miễn dịch thấp và giảm sức đề kháng chống lại nhiễm trùng do các tác nhân gây bệnh khác nhau và sự có mặt đồng thời của các hợp chất nitơ (đặc biệt là ammonia và nitrit) trong hệ thống nuôi tôm cũng làm tăng đáng kể độc tính của chúng bởi vì các hợp chất có xu hướng có tác dụng hiệp đồng. Do đó khi nuôi tôm với độ mặn thấp cần đảm bảo các yếu tố chất lượng nước luôn nằm trong ngưỡng phù hợp với sự phát triển của tôm để giảm bớt thiệt hại.

Tác giả: Marcela G. Fregoso-Lo´pez,  Mar´ıa S. Morales-Covarrubias, Miguel A Franco-Nava, Javier Ram´ırez-Roch´ın, Juan F Fierro-San~udo, Jesu´s T Ponce-Palafox, Federico.

Xem đầy đủ trên. Aquaculture Research

Đăng ngày 05/07/2018
VĂN THÁI (Lược dịch)
Kỹ thuật

Nói không với kháng sinh trong nuôi tôm?

Khi tiếp cận với việc sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm, việc áp dụng chúng một cách chính xác và hiệu quả là vô cùng quan trọng để đảm bảo sức khỏe của tôm và người tiêu dùng, cũng như duy trì sự bền vững của ngành nuôi tôm.

Tôm sú
• 12:03 25/04/2024

Nguyên nhân nào làm tôm bị vàng gan?

Gan là bộ phận quan trọng trên cơ thể tôm, nếu gan tôm phát sinh vấn đề như bị vàng gan sẽ khiến tôm chết hàng loạt. Vậy làm sao để xác định nguyên nhân tôm bị vàng gan, cách phòng ngừa và điều trị như thế nào để khắc phục tình trạng trên, cùng tìm hiểu với Tép Bạc qua bài viết dưới đây nhé!

Gan tôm bị vàng
• 09:42 24/04/2024

Lab lab trong ao tôm và cách phòng trị hiệu quả

Lab lab tập hợp thủy sinh bao gồm tảo, vi sinh vật và nguyên sinh động vật phát triển trong ao tôm. Tập hợp này được gọi bằng một thuật ngữ (có xuất xứ từ Philippines) là lab lab.

Nước ao tôm
• 09:47 22/04/2024

Nhiệt độ và các yếu tố khác ảnh hưởng đến màu sắc tôm như thế nào?

Có thể bà con đã từng tự hỏi vì sao tôm lại có nhiều màu sắc khác nhau như vậy? Liệu màu sắc có thực sự ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng của chúng không? Điều gì tác động từ môi trường bên ngoài có thể ảnh hưởng đến chất lượng, màu sắc của tôm và làm thế nào chúng ta có thể nhận biết được?

Tôm thẻ
• 09:45 22/04/2024

Cẩn thận với mùa sứa biển Vũng Tàu 

Mùa hè là thời điểm lý tưởng để du lịch biển, nhưng cũng là lúc bạn cần cẩn thận với sự xuất hiện của sứa biển, đặc biệt là tại Vũng Tàu. Sứa biển có thể gây ra những vết ngứa rát khó chịu, thậm chí ảnh hưởng đến sức khỏe nếu bị đốt nghiêm trọng.

Sứa biển
• 23:38 25/04/2024

Công cụ săn mồi độc đáo của cá nheo châu Âu

Cá nheo châu Âu là loài cá sở hữu kích thước “khủng” có nguồn gốc từ Đông Âu, nhưng nay đã có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Không chỉ gây chú ý về kích thước, loài cá này còn được biết đến nhờ tuyệt chiêu săn mồi có một không hai của mình.

Cá nheo
• 23:38 25/04/2024

Nói không với kháng sinh trong nuôi tôm?

Khi tiếp cận với việc sử dụng kháng sinh trong nuôi tôm, việc áp dụng chúng một cách chính xác và hiệu quả là vô cùng quan trọng để đảm bảo sức khỏe của tôm và người tiêu dùng, cũng như duy trì sự bền vững của ngành nuôi tôm.

Tôm sú
• 23:38 25/04/2024

Thực phẩm chỉnh sửa gen của Nhật Bản đến tay người tiêu dùng

Nhật Bản là một trong những nước tiêu thụ thực phẩm thủy sản lớn nhất thế giới. Người Nhật thích ăn cá và một nghiên cứu do Trường Cao đẳng Tim mạch Hoa Kỳ thực hiện cho thấy trung bình người Nhật ăn khoảng 3 ounce cá mỗi ngày. Ẩm thực địa phương của Nhật Bản rất giàu cá và hải sản, nguồn protein chính trong chế độ ăn ít chất béo và giàu dinh dưỡng của người dân Nhật Bản.

Hải sản
• 23:38 25/04/2024

Nhiệt độ ao nuôi tăng cao do thời tiết nắng nóng

Hiện nay, thời tiết nắng nóng kéo dài gây nhiều ảnh hưởng đến các khu vực nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt với thời tiết ngày và đêm chênh nhiệt độ rõ rệt, việc nhiệt độ của nước ao nuôi liên tục tăng là điều đáng chú ý cho các hộ nuôi.

Nắng nóng
• 23:38 25/04/2024