Probiotic và paraprobiotic là gì?
Probiotics còn được biết là chế phẩm sinh học với các vi khuẩn sống mang lại lợi ích cho cá nuôi. Bacillus spp là một loại vi khuẩn phổ biến được sử dụng làm probiotic. Bacillus spp có thể tồn tại lâu hơn so với các chế phẩm sinh học khác do khả năng chống chịu với nhiệt độ cao.
Tỷ lệ sống của vi sinh vật probiotic trong quá trình chế biến và bảo quản thức ăn vẫn là một thách thức khi sử dụng probiotic. Ho và cộng sự (2017) cho biết số lượng tế bào probiotic trong thức ăn chăn nuôi giảm khoảng 10% sau ba tuần bảo quản. Bởi các tế bào probiotic là vi sinh vật sống dễ bị phá vỡ hoặc giết chết do các yếu tố khác nhau của quá trình sản xuất (de Araújo et al., 2020). Tế bào probiotic chết hoặc không hoạt động được gọi là paraprobiotic (Zendeboodi et al., 2020). Khái niệm về paraprobiotic là việc sử dụng các tế bào probiotic không có khả năng sống sẽ mang lại những lợi ích nhất định cho vật chủ. Paraprobiotic có được từ các vi sinh vật tốt bị mất khả năng tồn tại sau khi tiếp xúc với một số yếu tố có thể thay đổi cấu trúc tế bào của vi sinh vật, chẳng hạn như sự đứt gãy DNA, rối loạn trong màng tế bào…
Bổ sung paraprobiotic Bacillus sp. NP5 cho cá diêu hồng
Nghiên cứu được thực hiện bởi Aldy Mulyadin và cộng sự được thực hiện bằng cách thêm 1% (thể tích/trọng lượng) probiotics hoặc 1% paraprobiotics của Bacillus sp. NP5 vào thức ăn cho cá diêu hồng. Việc bổ sung probiotics và paraprobiotics được thực hiện riêng biệt cho các phương pháp điều trị khác nhau.
Các nhóm cá với 3 phương pháp điều trị và được lặp lại 5 lần với: Nhóm 1: Bổ sung 1% (v/w) probiotic Bacillus sp. NP5; Nhóm 2: Bổ sung 1% (v/w) paraprobiotic Bacillus sp. NP5; Nhóm cá đối chứng: Không bổ sung probiotic hoặc paraprobiotic.
Cá được nuôi trong 30 ngày. Vào ngày nuôi 31, cá được thử thách với vi khuẩn gây bênh liên cầu khuẩn là S. agalactiae (107 CFU / mL) thông qua đường tiêm. Paraprobiotic của Bacillus sp NP5 được tạo ra thông qua quá trình khử hoạt tính bằng nhiệt ở 95°C trong 1 giờ, sau đó thực hiện thử nghiệm khả năng tồn tại trên môi trường thạch TSA và ủ trong 24 giờ.
Trong thời gian 30 ngày nuôi, cá điêu hồng được nuôi bằng men vi sinh và thức ăn bổ sung paraprobiotics có tốc độ tăng trưởng tốt hơn cá được nuôi không bổ sung men vi sinh và paraprobiotics.
Với trọng lượng ban đầu của thí nghiệm khoảng 22 - 23 gam, trọng lượng cuối cùng trung bình của cá điêu hồng là 50 - 51 gam với khối lượng bổ sung hàng ngày là 2,2 - 2,4%. Trong khi cá diêu hồng được cho ăn mà không bổ sung men vi sinh hay paraprobiotics (nhóm cá đối chứng), trọng lượng cuối cùng trung bình chỉ khoảng 45 gam với mức tăng trưởng hàng ngày là 1,9%.
Hiệu suất của việc bổ sung probiotics và paraprobiotics vào thức ăn cũng có thể làm giảm FCR (hệ số chuyển đổi thức ăn). Kết quả cuối cùng của FCR với hai nghiệm thức lần lượt là 1,27 - 1,36. Trong khi đó, FCR trong thức ăn không bổ sung men vi sinh và paraprobiotics có thể đạt 1,52.
Biểu đồ thể hiện tỷ lệ sống của cá diêu hồng với 1 nhóm không thử thách với vi khuẩn gây bệnh (K-), 3 nhóm được tiêm S. agalactiae gây bệnh: Pro (nhóm cá 1 đã được bổ sung 1% probiotic), Para (nhóm cá 2 đã được bổ sung 1% paraprobiotic) và K+ nhóm đối chứng không bổ sung.