Gia tăng chất thải nhựa trên biển
Theo đánh giá của chuyên gia thuộc Viện Chiến lược, chính sách, tài nguyên và Môi trường, Bộ TN&MT cho biết trong ngày làm sạch bờ biển quốc tế (The International Coastal Cleanup) 21/9/2012 đã ghi nhận hơn 60% lượng chất thải là nhựa trên tổng số 4.600 tấn thải đã thu gom được. Chất thải nhựa thường bao gồm các đồ bọc, chứa thực phẩm, mũ, nắp đậy, chai, túi nhựa, vật dụng dùng một lần (như thìa, dĩa, dao,…). Chất thải nhựa do khối lượng rất nhẹ nên chúng bị phân tán trên toàn cầu từ châu lục này đến châu lục khác nhờ sóng biển, tồn tại dai dẳng trong môi trường và hầu như không chịu bất cứ thay đổi sinh học nào do tính chất khó phân hủy.
Chất thải nhựa có xu hướng trở nên có kích thước nhỏ hơn thông qua quá trình vật lý, điều này khiến cho nhựa có kích thước dưới 5 milimet dễ dàng đi vào chuỗi thức ăn dưới nước. Ngoài ra, nhiều loài động vật biển như rùa, chim biển lại nhầm tưởng chúng là cỏ biển. Điều này dẫn đến hệ thống tiêu hóa của các con vật này bị gián đoạn (disrupt) hoặc ngăn chặn (block), do đó làm thiếu chất dinh dưỡng cũng như bị nhiễm độc dẫn đến cái chết của các con vật này.
Theo tính toán của các nhà khoa học nhựa chiếm đa số chất thải trên biển và là mối nguy lớn cho môi trường biển bởi số lượng lớn, đặc tính khó phân hủy trong môi trường biển và khả năng di chuyển xa. Nhựa chiếm khoảng 50-80% lượng rác thải biển và được dự đoán là sẽ còn tiếp tục tăng trong tương lai gần. Ước tính hơn 80% chất thải nhựa trên biển hàng năm có nguồn gốc từ đất liền, phần còn lại là nhựa được xả trực tiếp trên biển.
Rác thải đang từng ngày "xâm chiếm" đại dương với số lượng lớn
Mới đây, một nhóm các nhà khoa học thuộc Đại học California (Mỹ) và Đại học Inđônêxia đã thu gom những con cá được bán ở các chợ thuộc vịnh Half Moon và Princeton (bang California, Mỹ) và biển Makassar (Inđônêxia) về để phân tích. Họ phát hiện ra rằng, ở Inđônêxia, 28% tổng số cá thể cá và 55% loài động vật biển được lấy mẫu có rác thải nhựa trong dạ dày và đường ruột. Tại Mỹ, rác thải nhựa được tìm thấy trong 25% cá thể cá và 67% các loài động vật biển được lấy mẫu. Các hạt nhựa nhân tạo cũng được tìm thấy trong 33% mẫu cá thể động vật có vỏ (tôm, cua, sò, ốc…).
Ở nước ta, tài nguyên và môi trường biển có ý nghĩa và vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng vững chắc, là nguồn lực đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển. Việc quản lý, bảo vệ môi trường biển ở nước ta đã được đề cập trong nhiều văn bản như Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo, Luật Bảo vệ Môi trường 2014 và nhiều văn bản định hướng, văn bản hướng dẫn Luật khác. Tuy nhiên, công tác quản lý chất thải đặc biệt là chất thải nhựa trên biển còn chưa thực sự được quan tâm, chưa có những quy định cụ thể về quản lý chất thải nhựa biển. Đồng thời cũng chưa có nhiều nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm trong việc đánh giá thực trạng phát sinh, kiểm soát, quản lý chất thải nhựa trên biển,...
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Được biết, để kiểm soát vấn đề chất thải nhựa, nhiều nước trên thế giới đã áp dụng nhiều giải pháp như phòng ngừa, giảm thiểu phát sinh chất thải nhựa từ các hoạt động sản xuất và tiêu thụ của con người, xử lý chất thải nhựa, các sáng kiến, chiến dịch làm sạch biển, các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức,.... Các biện pháp phòng ngừa, cắt giảm lượng rác có thể tóm gọn thành công cụ kinh tế thị trường (MBI), kỹ thuật/công nghệ sẵn có tốt nhất (BATs) và luật lệ do chính quyền đặt ra. Để xử lý chất thải nhựa, các nước thường sử dụng các phương pháp chôn lấp, đốt rác và tái chế, thu hồi chất thải. Bên cạnh đó, việc thay đổi nhận thức, hành vi đối với chất thải nhựa biển có ý nghĩa quan trọng trong việc phòng ngừa, giảm thiểu sự phát sinh chất thải nhựa từ hoạt động sản xuất và tiêu dùng, tăng cường các hoạt động tái sử dụng, tái chế chất thải nhựa.
Nhiều biện pháp kỹ thuật cũng đã được sử dụng để kiểm soát chất thải nhựa biển như kỹ thuật đánh dấu thiết bị đánh bắt thủy sản nhằm cắt giảm lượng dụng cụ đánh bắt bị thất lạc, thải bỏ; kỹ thuật thu gom và loại bỏ rác ở sông và cảng (như các rào chắn nổi, máy gắp cải tiến và các thiết bị khác để loại bỏ các vật liệu khác nhau ra khỏi đáy biển hay bề mặt biển bao gồm dụng cụ đánh bắt bị thất lạc, thải bỏ); phát triển vật liệu sản xuất dụng cụ đánh cá có thể bị phân hủy do vi sinh vật trong nước biển,…
Bên cạnh đó, việc theo dõi lượng rác thải nhựa có trong môi trường cùng với tốc độ rác thải nhựa đi vào môi trường sẽ giúp đánh giá thực trạng và hiệu quả của công tác kiểm soát chất thải nhựa. Khảo sát rác thải biển thường bao gồm ba loại là khảo sát rác thải trên bãi biển; khảo sát rác thải nổi và khảo sát rác thải đáy. Một số quốc gia và tổ chức quốc tế đã đưa ra quy trình chuẩn để khảo sát bãi biển như Chương trình rác thải biển của Cơ quan Đại dương và Khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA), Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP), Công ước Bảo vệ môi trường biển vùng Đông Bắc Đại Tây Dương (OSPAR).
Từ những kinh nghiệm quốc tế, theo Thạc sĩ Dương Thị Phương Anh (Viện Chiến lược, chính sách, tài nguyên và Môi trường), việc xác định các nguồn phát sinh cũng như khối lượng chất thải nhựa trong môi trường biển và ven biển sẽ giúp cho việc quản lý chất thải, ngăn ngừa nguy hại tới đời sống thủy sinh. Việc giảm lượng chất thải nhựa đi vào hệ sinh thái biển và ven biển có thể được coi như một chỉ thị hỗ trợ của công tác quản lý chất thải bởi vì rủi ro về việc phá hủy đa dạng sinh học khu vực biển và ven biển có thể được giảm bớt. Chỉ thị này cũng được sử dụng để giám sát các mục tiêu liên quan chất thải trong đó có chất thải trên biển của Tuyên bố Hà Nội về 3R được thông qua tại Diễn đàn 3R khu vực Châu Á Thái Bình Dương năm 2013 (Việt Nam là một trong những thành viên tham gia đầy đủ các hội nghị của Diễn đàn 3R này).
Thời gian tới, theo nhiều chuyên gia, để kiểm soát chất thải nhựa trên biển ở Việt Nam trước hết cần hoàn thiện chính sách pháp luật, tổ chức bộ máy về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển; Đẩy mạnh áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý chất thải nhựa biển; Tăng cường nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ phục vụ quản lý, kiểm soát hiệu quả chất thải nhựa biển. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về quản lý, kiểm soát chất thải nhựa biển. Ngoài ra, tích cực tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về chất thải nhựa biển.