Thực hiện nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện trong bể ương nuôi ngoài trời tại Khoa Thủy sản, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Thí nghiệm lặp lại hai lần, sử dụng 8 bể có thể tích 8 m3 ), cá rô đồng cỡ khoảng 2 - 3 g/con. Mật độ thả: 40 con/m2.
Cá ở các nghiệm thức được cho ăn 2 lần/ngày bằng cám viên công nghiệp. Giai đoạn đầu cho cá ăn thức ăn có 35% protein. Sau 1 tháng chuyển sang thức ăn chứa 30% protein.
Ở nghiệm thức 1 (NT1) cho ăn với tỷ lệ 100%, ký hiệu, sử dụng cám công nghiệp. Các NT2, NT3, NT4 cho ăn với tỷ lệ lần lượt là 90%, 80%, 70% lượng thức ăn của NT1. Các thí nghiệm cùng một cỡ cá, cùng mật độ, được bố trí theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn.
Chuẩn bị và thả cá
Bể được vệ sinh sạch sẽ, khử trùng bằng Chlorine hoặc thuốc tím trước khi thả cá, sau đó rửa sạch trước khi bơm nước vào. Nước cấp vào bể được lọc qua hệ thống lọc thô để loại bỏ sắt. Khi cấp nước, mặt nước cách miệng bể khoảng 40 cm tránh hiện tượng cá nhảy ra ngoài vì chuyển qua môi trường nước mới. Bể cần lắp hệ thống sục khí để tạo ôxy hòa tan cho cá, tránh tình trạng nước nóng quá gây ảnh hưởng đến khả năng sống và phát triển của cá.
Cho ăn
Các bể thí nghiệm cho ăn 2 lần/ngày, buổi sáng khoảng 7 - 9h, buổi chiều 15 - 17h. Cứ sau 60 phút vớt thức ăn thừa, ghi chép lượng ăn hàng ngày của từng bể.
Theo dõi môi trường
Quan sát màu nước bể qua các ngày và đo các thông số môi trường: Nhiệt độ, pH, NH3, NH4+, NO3-. Nhiệt độ đo bằng nhiệt kế và ghi chép lại các thông số môi trường điều chỉnh thay nước cho hợp lý. Các thông số pH, ôxy hòa tan, NO3-, NH4+, NH3 đo bằng bộ test so màu Sera của Đức. Định kỳ theo dõi 7h sáng và 14h chiều hàng ngày các thông số: pH, O2, nhiệt độ. Các thông số: NO3-, NH4+, NH3 theo dõi trước và sau khi thay nước (chu kỳ 1 lần/tuần).
Quản lý sức khỏe cá
Hàng ngày kiểm tra hoạt động ăn, bắt mồi của cá. Theo dõi cá bệnh, cá chết và tỷ lệ sống. Thu mẫu kiểm tra bệnh cá định kỳ.
Kiểm tra tốc độ tăng trưởng của cá
Lấy mẫu ngẫu nhiên 10 con/bể, cân khối lượng (W), đo chiều dài chuẩn cá (L). Sau khi kiểm tra các chỉ tiêu tăng trưởng, cá được thả nuôi lại.
Kết quả
Sự biến động các yếu tố môi trường
Theo kết quả ở bảng 1 cho thấy, trong quá trình ương nuôi cá rô đồng, mặc dù thời tiết có nhiều biến động nhưng các chỉ số đều nằm trong giới hạn chịu đựng của cá, phù hợp với điều kiện sống và phát triển.
Tỷ lệ sống
Trong suốt thời gian thí nghiệm tỷ lệ sống của cá rô đồng trong bể đạt khá cao. Mỗi bể chỉ chết một ít cá thể trong những ngày đầu thả cá.
Nhìn chung, tỷ lệ sống sau 3 tháng nuôi của 4 nghiệm thức dao động trong khoảng 91,95 - 94,5% và không có sự khác biệt thống kê (p>0,05). Như vậy, tỷ lệ sống của cá rô đồng thí nghiệm này không bị ảnh hưởng bởi việc giảm lượng thức ăn. Điều này có thể chứng minh nếu phương pháp cho ăn giảm dần theo tỷ lệ hợp lý sẽ không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá rô đồng, mà chi phối đến tỷ lệ sống của cá là các yếu tố khác có thể do môi trường bất lợi, thời tiết, cá bị bệnh, quá trình vận chuyển…
Tốc độ tăng trưởng
Sau 3 tháng ương nuôi thí nghiệm ta có thể thấy rằng: Kết quả về tăng trưởng của NT1 là cao nhất với các chỉ số tương ứng là: Wc đạt 49,51 g, ADGw đạt 0,52+0,03a(g/ngày) và SGRw đạt 3,27+0,003a(%/ngày).
Kết quả về tăng trưởng khối lượng và chiều dài cho ta thấy: Việc cho cá rô đồng ăn 2 lần/ngày và giảm dần tỷ lệ không ảnh hưởng đến tỷ lệ sống, trọng lượng trung bình của cá. Còn cho ăn với tỷ lệ 70% (NT4) thì có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê so với NT1 (p<0,05) có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng khối lượng của cá so với NT1.
Hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR)
Qua bảng 5 và hình 4 cho thấy, FCR ở cả bốn nghiệm thức dao động 1,66 - 2. FCR nhỏ nhất ở NT4 là 1,66+0,08b, tiếp đến là NT3 với hệ số 1,75+0,05b sau đó là NT2 với 1,94+0,03a và cao nhất NT1 là 2+0,01a.
Việc cho ăn theo NT4 mặc dù có FCR nhỏ nhất nhưng nó lại có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (p>0,05) về trọng lượng trung bình, còn cho ăn theo NT3 và NT2 lại không có sự sai khác về trọng lượng trung bình so với NT1 (p>0,05). Tuy nhiên, NT3 lại có FCR nhỏ hơn so với NT2.
Từ đó, có thể thấy việc cho cá ăn 80% so với NT1 thì không làm ảnh hưởng đến trọng lượng trung bình và tỷ lệ sống của cá rô đồng. Trong khi, FCR lại thấp hơn hẳn so với FCR của NT2 và NT1 là (1,75 so với 1,94 và 2). Vì vậy, cho ăn theo NT3 sẽ giúp cho việc hấp thu thức ăn hiệu quả hơn, giảm lượng thức ăn thừa, giúp duy trì ổn định chất lượng môi trường nước, cá ít bị bệnh hơn, rủi ro sẽ thấp hơn. Đặc biệt, khi FCR thấp, chi phí thức ăn cũng giảm theo một cách có ý nghĩa.