William Cheung, phó giáo sư tại Viện Đại dương và Thủy sản ông cũng là giám đốc khoa học của Quỹ Nippon cho biết: "Chúng tôi hy vọng rằng nghiên cứu này sẽ làm nổi bật các loài sinh vật biển cần nhiều hoạt động quản lý và bảo tồn dưới sự thay đổi khí hậu" Chương trình UBC Nereus.
Trong cuộc nghiên cứu, các nhà khoa học UBC đã tạo ra một cơ sở dữ liệu để kiểm tra tính dễ bị tổn thương lâu dài của các loài sinh vật biển quan trọng đối với nghề cá trên thế giới. Cơ sở dữ liệu đã được phát triển với một phương pháp sử dụng "logic mờ" để kết hợp thông tin về sự nhạy cảm về mặt sinh học của những loài này với những thay đổi về môi trường cũng như sự tiếp xúc dự kiến của chúng đối với những thay đổi ở đại dương bao gồm nhiệt độ, oxy và axit.
Các yếu tố hạn chế việc cá hoặc động vật có vỏ có thể thích ứng với biến đổi khí hậu bao gồm phạm vi nhiệt độ thích hợp, hạn chế về phạm vi địa lý, thời gian để sinh sản và các yêu cầu môi trường sống cụ thể như cần tảo biển hay san hô để tồn tại.
Miranda Jones, tác giả chính của cuộc nghiên cứu, cho biết: "Cá hồi Úc ở miền Đông rất dễ bị tổn thương bởi vì phân bố của chúng chỉ giới hạn ở những vùng nước nông thôn ven biển và cửa sông ở phía nam Australia và New Zealand", Miranda Jones cũng cho biết thêm: "Loài này sống trong môi trường sống bị tổn thương trước những thay đổi lớn trong điều kiện đại dương và có phạm vi giới hạn để tránh những thay đổi này."
Tại Canada, cá hồi cùng với cá alewife, cá vược Thái Bình Dương, cá mập và cá nhám, được xác định là có nguy cơ chịu ảnh hưởng lớn bởi tác động của biến đổi khí hậu.