Quan trắc môi trường rất quan trọng
Công tác quan trắc môi trường cung cấp thông tin chất lượng nước giúp người nuôi có kế hoạch sử dụng nước, chủ động trong công tác quản lý chất lượng nước trong ao nuôi và phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả. Quan trắc môi trường cung cấp diễn biến môi trường vùng nuôi và đưa ra những đề xuất có liên quan giúp cơ quan quản lý xây dựng lịch mùa vụ, có kế hoạch phòng tránh những thiệt hại mà nguyên nhân chính do ô nhiễm môi trường gây ra để chỉ đạo sản xuất và quản lý NTTS hiệu quả; đồng thời, kết quả quan trắc môi trường là cơ sở đánh giá tác động của NTTS đến môi trường xung quanh và đánh giá tác động của môi trường xung quanh đến NTTS, giúp cơ quan quản lý trong việc quy hoạch vùng NTTS tại địa phương và định hướng phát triển ngành thủy sản trong tương lai...
Các số liệu thu thập được về chất lượng nước là cơ sở quan trọng để các cơ quan quản lý ban hành các chính sách về bảo vệ môi trường và giúp cho việc ngăn chặn sớm nguy cơ ô nhiễm và phát sinh dịch bệnh, từ đó giảm nhẹ phạm vi, mức độ ảnh hưởng cũng như chi phí xử lý ô nhiễm và phòng trừ dịch bệnh.
Còn nhiều hạn chế
Theo Tổng cục thủy sản, mạng lưới quan trắc môi trường thủy sản được hình thành dựa vào 4 trung tâm quan trắc tại các Viện nghiên cứu NTTS 1, 2, 3 và Viện nghiên cứu hải sản từ năm 2001. Từ năm 2006 đến nay, hầu hết các tỉnh trọng điểm về NTTS đều đã có hoạt động quan trắc môi trường NTTS do các Chi cục thủy sản, Chi cục NTTS, phòng NTTS hay Trung tâm giống thủy sản quản lý, hình thành mạng lưới quan trắc môi trường NTTS, phục vụ chỉ đạo sản xuất có hiệu quả. Từ năm 2014, quan trắc môi trường tập trung về một đầu mối là Tổng cục thủy sản để đảm bảo tính chủ động, linh hoạt trong quản lý điều hành. Một số địa phương đã xây dựng phòng thí nghiệm môi trường bệnh với đầy đủ trang thiết bị. Một số khác đã có những trang thiết bị quan trắc môi trường cơ bản. Nhân lực quan trắc của các địa phương tuy là cán bộ kiêm nhiệm nhưng cũng tham gia công tác quan trắc môi trường NTTS nhiều năm nên cũng có nhiều kinh nghiệm.
Tuy vậy, trên bình diện chung, quan trắc môi trường NTTS vẫn chưa được quan tâm đúng mức, kinh phí đầu tư ít, đào tạo nhân lực và kinh nghiệm thực tế chưa nhiều. Tổ chức triển khai quan trắc từ xác định nội dung, địa điểm, chỉ số, tần suất và cơ chế xử lý kết quả quan trắc chưa hợp lý. Vì vậy, công tác quan trắc môi trường cần có thời gian để điều chỉnh và thay đổi. Nhiệm vụ quan trắc môi trường NTTS là nhiệm vụ phải thực hiện thường xuyên nhưng các trung tâm và các bộ phận quan trắc địa phương phải lên kế hoạch hàng năm và phải chờ phê duyệt, thường là từ tháng 2 đến tháng 6 hàng năm mới được phê duyệt. Kinh phí quan trắc thường không giống nhau từ năm này đến năm khác và thường cấp rất chậm so với nhu cầu sản xuất nên chưa đáp ứng đầy đủ thực tiễn sản xuất.
Các trung tâm quan trắc hiện nay được hình thành trên cơ sở phòng thí nghiệm, trang thiết bị, máy móc của các viện được đầu tư từ nhiều nguồn đề tài, dự án, tài trợ nhỏ lẻ phục vụ nghiên cứu là chủ yếu chứ chưa được đầu tư quy mô, đồng bộ nhằm phục vụ tốt công tác quan trắc môi trường. Các địa phương, ngoại trừ các tỉnh có kinh phí quan trắc lớn được đầu tư đầy đủ trang thiết bị, còn lại đa số các địa phương khác trang bị rất thiếu và nghèo nàn, không đảm bảo cho hoạt động quan trắc diễn ra thường xuyên, đồng bộ và đầy đủ. Mạng lưới quan trắc môi trường còn thiếu cơ chế hợp tác rõ ràng giữa các bên tham gia trong việc lập kế hoạch, tổ chức quan trắc, xử lý số liệu và chia sẻ thông tin...
Để nâng cao hiệu quả hoạt động quan trắc, cảnh báo môi trường trong NTTS thời gian tới, Tổng cục thủy sản cho biết sẽ chỉ đạo và tổ chức thực hiện dự án “Quan trắc môi trường phục vụ nuôi trồng thủy sản” theo Quyết định 5204/BNN-TCTS ngày 5/12/2014 của Bộ NN&PTNT. Chỉ đạo, hướng dẫn địa phương xây dựng hệ thống quan trắc môi trường. Xây dựng sổ tay quan trắc môi trường để hướng dẫn quy trình quan trắc môi trường và phương pháp phát hành bản tin quan trắc thống nhất trong cả nước. Xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia về quan trắc môi trường, các giới hạn thông số môi trường cho nuôi trồng thủy sản...
Xây dựng cơ chế chia sẻ, kiểm soát thông tin quan trắc đảm bảo kịp thời, chính xác và đảm bảo yêu cầu về quản lý thông tin, số liệu quan trắc. Đẩy mạnh ứng dụng các kết quả nghiên cứu và quan trắc trong công tác chỉ đạo NTTS, quy hoạch vùng nuôi, xây dựng lịch thời vụ, điều chỉnh hoạt động sản xuất thủy sản, xử lý ô nhiễm môi trường và cảnh báo dịch bệnh... Ngoài ra, Tổng cục thủy sản cũng sẽ tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn trong nước để nâng cao năng lực và cập nhật kiến thức cho cán bộ cơ quan phụ trách quan trắc môi trường các địa phương.