Gây nuôi, bảo vệ, tái tạo nguồn lợi trai môi vàng tại huyện phú quốc

Ngày 28 tháng 11 năm 2018, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức Hội nghị đánh giá Giai đoạn I của Đề án “Thí điểm thả nuôi giống Trai nhân tạo gắn với bảo vệ, bảo tồn và tái tạo nguồn lợi thủy sản tại Hòn Vang, xã Hòn Thơm, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang”.

Gây nuôi, bảo vệ, tái tạo nguồn lợi trai môi vàng tại huyện phú quốc
Nhà giàn canh giữ, bảo vệ Trai gây nuôi tái tạo nguồn lợi

Đề án được UBND tỉnh Kiên Giang phê duyệt theo Quyết định số 2629/QĐ-UBND ngày 23 tháng 11 năm 2016. Các đơn vị thực hiện gồm: Ban quản lý Khu bảo tồn biển Phú Quốc và DNTN Ngọc Hiền; với Đơn vị tư vấn là: Viện Hải Dương học (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam). Theo đó, Đề án dự kiến thực hiện 20 năm (chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn I là 02 năm đầu; Giai đoạn II là những năm tiếp theo). Mục tiêu của Đề án là nhằm Xây dựng mô hình liên kết giữa Ban quản lý Khu bảo tồn biển với doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học, tái tạo nguồn lợi và sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Phú Quốc.

Hội nghị có sự tham gia của đại diện các sở, ngành và chính quyền địa phương như: Văn phòng UBND tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Tài nguyên và Môi trường; Các đơn vị trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Phòng Kế hoạch – Tài chính, Chi cục Thủy sản, Trung tâm Khuyến nông); Các phòng chuyên môn trực thuộc UBND huyện Phú Quốc (Phòng Kinh tế, Phòng Tài nguyên và Môi trường) và UBND xã Hòn Thơm.

Qua 02 năm triển khai Đề án, DNTN Ngọc Hiền đã cùng với BQL Khu bảo tồn biển Phú Quốc thả 02 đợt giống Trai môi vàng (Pinctada maxima) với tổng số lượng là 2,45 triệu con (kích thước 1-3 cm); phối hợp tổ chức 11 chuyến tuần tra, kiểm soát; xây dựng nhà quan sát và thả các loại phao phân ranh giới bảo vệ tại khu vực nuôi. Tổng chi phí đầu tư trong Giai đoạn I hơn 10 tỷ đồng.

trai môi vàng, nuôi trai, mô hình nuôi trai, thúy sản, giống thủy sản

Tại hội nghị, các đại biểu đánh giá cao sự tham gia của DNTN Ngọc Hiền trong việc nỗ lực đóng góp bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản nói chung và nguồn lợi Trai môi vàng nói riêng trong Khu bảo tổn biển Phú Quốc. Hội nghị cũng thảo luận đánh giá những mặt làm được – chưa làm được để các Đơn vi thực hiện và Đơn vị tư vấn bổ sung hoàn thiện, tổ chức triển khai thực hiện tốt các nội dung Đề án trong giai đoạn tiếp theo. Cụ thể:

* Những mặt làm được: Kết quả thí điểm thả giống nuôi tái tạo nguồn lợi Trai môi vàng ở Giai đoạn I của Đề án cho thấy, loài này thích nghi tốt với điều kiện môi trường ở khu vực Hòn Vang (thuộc Quần đảo An Thới) thông qua việc sinh trưởng tốt và phát tán đến những nơi có điều kiện dinh dưỡng cao, dòng chảy mạnh, nước sâu. Qua kiểm tra, tốc độ sinh trưởng và phát triển tuyến sinh dục của Trai nuôi hoàn toàn bình thường như những vùng biển khác. Có thể nói, việc thả nuôi Trai môi vàng trong Giai đoạn I của Đề án đã góp phần tái tạo nguồn lợi tự nhiên; đồng thời cho thấy, khu vực nuôi không những không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh mà còn làm tăng tính đa dạng sinh học tại khu vực biển được giao. Xuất hiện số lượng nhiều của một số loài cá có giá trị kinh tế cao và có kích thước lớn (cá Kẽm, cá Mú đỏ, cá Mú sao,...); các loài động vật đáy (Sò nước, Sò tô, Ốc đụn, Cầu gai,...). Riêng đối với rạn San hô thì phát triển rất tốt, phong phú về thành phần loài, chiếm phần lớn trong số đó là san hô cứng. Nhiều ý kiến cũng cho rằng, nếu được khai thác, phát huy tốt, việc bảo vệ, tái tạo nguồn lợi loài Trai môi vàng sẽ là một “sản phẩm du lịch” đặc trưng thu hút khách tham quan, thưởng lãm mà chưa nơi nào có được lợi thế như ở đây.  

* Những mặt còn hạn chế: So với mục tiêu ban đầu, quá trình triển khai Đề án còn một số mặt còn hạn chế, cần phải khắc phục, hoàn thiện như: (1) Lượng giống thả nuôi thực tế chưa đạt số lượng dự kiến ban đầu (khoảng 45 triệu con); (2) Tỷ lệ sống trai thả nuôi ghi nhận được còn thấp; (3) Công tác phối hợp tuần tra, khảo sát có khi chưa được nhịp nhàng, liên tục, còn bị động ở một số thời điểm; (4) Chưa lường trước để có biện pháp phòng tránh việc phát tán của trai nuôi khi trưởng thành gây khó khăn cho việc định lượng trai sống sót để đánh giá Giai đoạn I của Đề án; và (5) Chưa có biện pháp bảo vệ các phao phân ranh, phân vùng hiệu quả, khiến cho việc thất thoát có xảy ra.

* Nguyên nhân của những hạn chế trên là do: (1) Khu sản xuất trai giống nhân tạo của Doanh nghiệp tại Bà Rịa – Vũng Tàu đang trong giai đoạn sữa chữa, hoạt động sản xuất có gián đoạn. (2) Hiệu quả xử lý các hành vi xâm phạm trái phép trong khu vực thực hiện Đề án chưa cao, khiến cho tình trạng thất thoát trai nuôi và mất cắp phao phân ranh vẫn còn xảy ra. (3) Các khung cố định không còn ghi nhận trai bám trên các vĩ nhựa và cũng không ghi nhận thấy vỏ trai đã chết ở đáy biển, khả năng lớn là Trai dứt tơ chân và di chuyển ra ngoài khu vực giám sát. (4) Thời tiết không thuận lợi (sóng to, gió lớn) cũng làm cho công tác tuần tra, khảo sát có khi không thực hiện được; phao ranh bị trôi dạt và trai nuôi phát tán theo dòng nước mạnh.

Để triển khai thực hiện tốt Giai đoạn II của Đề án, Đơn vị thực hiện và Đơn vị tư vấn cần phát huy những mặt làm được, đồng thời có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế, yếu kém nói trên, đặc biệt là công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân địa phương và vấn đề tuần tra, kiểm soát và xử lý các hành vi bắt trộm Trai thả nuôi trong khu vực thí điểm. Bên cạnh đó, DNTN Ngọc Hiền cũng cam kết sẽ trang bị Ca-nô phục vụ công tác đi lại tuần tra, khảo sát; thả thêm hơn 42 triệu con giống Trai môi vàng trong 03 năm tới và đầu tư các khoản chi phí khác trong giai đoạn tiếp theo để thực hiện tốt các nội dung của Đề án đã được UBND tỉnh Kiên Giang phê duyệt.  

Có thể nói, với sự nhiệt tình của DNTN Ngọc Hiền và BQL Khu bảo tồn biển Phú Quốc cùng với sự hỗ trợ hết mình của Viện Hải dương học (đặc biệt là tâm huyết của PGS.TS Võ Sĩ Tuấn – Viện trưởng) sẽ là cơ sở cho sự thành công của Đề án. Đồng thời, mô hình hợp tác giữa DNTN Ngọc Hiền và BQL Khu Bảo tồn biển Phú Quốc trong khuôn khổ Đề án sẽ là “hình mẫu” để nhân rộng, thu hút nhiều nguồn lực xã hội khác (người dân, doanh nghiệp, tập đoàn,…) cùng tham gia bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản tự nhiên nói chung; không chỉ đối với loài Trai môi vàng mà còn các loài thủy sản khác hiện cũng rất cần được bảo vệ, tái tạo nguồn lợi trên vùng biển Phú Quốc như: rùa biển, hải mã, trai tai tượng,... Nếu làm được như vậy, “giá trị Phú Quốc” sẽ ngày một gia tăng trong mắt của khách du lịch trong nước và quốc tế khi đến đây tham quan, thưởng lãm.

Kiengiang.gov.
Đăng ngày 26/12/2018
Phù Vĩnh Thái
Môi trường

Tổng hợp các phương pháp kiểm soát nguồn gốc chất thải

Kiểm soát nguồn gốc chất thải thủy sản đặc biệt là nuôi tôm là một khâu quan trọng trong quản lý chất thải, nhằm xác định nguồn phát sinh, loại chất thải, lượng chất thải và các thông tin liên quan khác. Các phương pháp này giúp chúng ta có những biện pháp xử lý và giảm thiểu chất thải hiệu quả hơn.

Nguồn gốc chất thải
• 09:42 14/11/2024

Tìm hiểu các loại vi sinh vật trong nước thải

Vi sinh vật trong nước thải đóng vai trò quan trọng trong việc phân hủy các chất hữu cơ và làm sạch nước. Hiểu biết về các loại vi sinh vật này sẽ giúp chúng ta tối ưu hóa quá trình xử lý nước thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bảo vệ nguồn nước.

Nước thải ao nuôi
• 09:38 12/11/2024

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến năng suất nuôi thủy sản tại vùng ven biển Việt Nam

Biến đổi khí hậu đang ngày càng ảnh hưởng mạnh đến ngành nuôi trồng thủy sản ven biển Việt Nam, gây ra các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lớn, hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn và nhiệt độ nước biển tăng cao trong năm 2023-2024. Những tác động này không chỉ làm suy giảm năng suất và sản lượng thủy sản, mà còn đe dọa sinh kế và an ninh kinh tế của người dân ven biển.

Nuôi trồng thủy sản
• 09:53 05/11/2024

Bảo vệ, phòng chống thiệt hại thủy sản nuôi trong mùa mưa bão

Bão lũ tác động trực tiếp đến các hoạt động nuôi trồng thủy sản, gây thiệt hại lớn cho người nuôi.

Ao tôm
• 10:02 31/10/2024

Sự cần thiết của chẩn đoán bệnh trên động vật thủy sản

Những đợt dịch bệnh không chỉ gây thiệt hại nặng nề mà còn ảnh hưởng đến chất lượng và uy tín của sản phẩm thủy sản trên thị trường. Để đối phó với thách thức này, chẩn đoán bệnh học thủy sản đã trở thành một công cụ quan trọng, giúp phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe của đàn nuôi, giảm thiểu rủi ro lây lan dịch bệnh và tối ưu hóa quy trình quản lý.

Xét nghiệm tôm
• 06:15 20/11/2024

Chăm sóc quản lý sức khỏe cho cá biển nuôi

Quản lý sức khỏe cho cá biển là một yếu tố quan trọng trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là trong các hệ thống nuôi cá biển (như nuôi cá biển trong ao, lồng bè hay trong môi trường biển tự nhiên). Sức khỏe của cá biển có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, từ điều kiện môi trường, thức ăn, cho đến các bệnh lý hay sự thay đổi của hệ sinh thái. Để duy trì sự phát triển và năng suất cao cho cá, cần phải có các biện pháp quản lý sức khỏe hiệu quả.

Nuôi cá trên biển
• 06:15 20/11/2024

Cá lồng đèn: Loài cá bé nhỏ thắp sáng một vùng đại dương

Dưới hàng trăm mét ở lòng biển tối tăm, một loài cá có kích thước “mi nhon” được đặt tên là cá lồng đèn. Loài cá này sở hữu khả năng kỳ diệu là điểm tô cơ thể bằng những ánh sáng màu xanh rực rỡ trong vùng nước sâu tối tăm của vùng biển chạng vạng.

Cá lồng đèn
• 06:15 20/11/2024

Một số sản phẩm dinh dưỡng phổ biến được dùng để ủ vi sinh

Ủ vi sinh là một quá trình quan trọng trong nuôi trồng thủy sản, nhằm tối ưu hóa sức khỏe của hệ sinh thái và tăng cường hiệu quả sản xuất.

Vi sinh
• 06:15 20/11/2024

Giá tôm tăng trở lại - Niềm vui phấn khởi cho bà con

Trong những ngày gần đây, thị trường tôm nguyên liệu tại các tỉnh như Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng đã chứng kiến mức tăng giá trở lại. Đây là tín hiệu tích cực, mang lại hy vọng cho người nuôi tôm sau thời gian dài đối mặt với khó khăn. Với đà tăng giá hiện tại, bà con kỳ vọng sẽ có một mùa vụ cuối năm khởi sắc và một cái Tết trọn vẹn niềm vui.

Tôm thẻ chân trắng
• 06:15 20/11/2024
Some text some message..