Ở thị xã Tân Châu, mô hình này được vài hộ nông dân thực hiện từ cuối những năm 1990. Sau một thời gian dài thực hiện, nông dân đã dần dần tích lũy kinh nghiệm cùng với sự hỗ trợ tích cực từ công tác khuyến ngư, mô hình này đã từng bước được cải tiến và phát triển nhanh trong thời gian gần đây.
Theo kết quả điều tra ở tháng 5 năm 2012, thị xã Tân Châu đã có 702 hộ thực hiện mô hình nuôi lươn thương phẩm (tăng 420 hộ so với cùng kỳ năm trước). Tổng diện tích nuôi là 40.893 m2. Nếu tính mật độ thả lươn giống bình quân : 60-80 con/m2 (khoảng 1,5 kg) thì với diện tích nuôi trên cần đến khoảng 2 triệu 500 ngàn con giống (tương đương khoảng 60 tấn lươn giống).
Do nhu cầu về lươn giống khá lớn nhưng nguồn lươn giống hiện nay hoàn toàn phụ thuộc vào khai thác lươn giống ở tự nhiên nên các hộ nuôi phải tăng cường khai thác và mua gom lươn giống ở địa phương và các vùng lân cận. Theo kết quả thăm dò từ các hộ thực hiện mô hình nuôi lươn thì lươn giống tự nhiên có tỷ lệ hao hụt khá cao, có hộ có tỷ lệ hao hụt lên đến 100% sau khi thả. Một trong những nguyên nhân gây hao hụt là do lươn giống đánh bắt từ tự nhiên chưa thích nghi với môi trường nuôi nhốt. Những nguyên nhân khác cũng có thể là do quá trình đánh bắt và vận chuyển làm sức khỏe của lươn suy yếu, cơ thể bị xây xát nên tạo điều kiện cho mầm bệnh tấn công, phát triển và gây bệnh.
Xuất phát từ tình hình trên, anh Nguyễn Văn Mol ngụ ở ấp Long Thành, xã Long An thuộc thị xã Tân Châu luôn ấp ủ nguyện vọng là làm thế nào để chủ động tạo ra nguồn lươn giống nhân tạo thích nghi trong môi trường nuôi nhốt nhằm khắc phục được hiện tượng hao hụt và nâng cao hiệu quả kinh tế của mô hình nuôi lươn thương phẩm. Qua sự giới thiệu của cán bộ khuyến ngư ở địa phương, anh Mol được Trung tâm Giống Thủy sản tỉnh hỗ trợ kỹ thuật trong việc thực hiện mô hình sản xuất giống lươn bằng phương thức bán nhân tạo. Anh đã tiến hành thử nghiệm bố trí bể cho lươn sinh sản, thu trứng, ấp trứng trong những thau nhựa (từ 3-5 ngày, trứng sẽ nở thành lươn bột) và ương nuôi lươn bột lên lươn giống.
Số lượng lươn bột ban đầu được ương nuôi khoảng 2.000 con. Quá trình ương nuôi lươn bột lên lươn giống được anh Mol thực hiện qua 2 giai đoạn sau:
- Giai đoạn ương nuôi trong thau nhựa:
Thau có đường kính khoảng 70cm, mỗi thau anh thả 500 con lươn bột. Sau khi nở khoảng 1 tuần, lươn bột tự tiêu hết noãn hoàng, anh bắt đầu cho lươn ăn thức ăn là trứng nước sống trong 20 ngày đầu, 30 ngày kết tiếp anh chuyển qua cho lươn ăn trùng chỉ. Trong thời gian này, mỗi ngày anh đều thay nước từ 1- 2 lần và tắm lươn trong thời gian khoảng 3 phút bằng nước muối pha loãng với liều lượng: 3 muỗng canh muối hột với 10 lít nước. Trong thời gian cho lươn ăn trùn chỉ, cứ mỗi tuần anh đều tiến hành lựa những con lươn có kích cỡ lớn để thả riêng nhằm hạn chế hiện tượng ăn nhau. Giá thể được sử dụng là dây nilon xé tưa, buột thành chùm và treo vào thanh tre mắc ngang thành thau nhựa. Mực nước trong thau nhựa dao động: 5 – 10 cm.
- Giai đoạn ương nuôi trong bể lót bạt:
Sau khoảng 50 ngày ương, anh Mol tiến hành đưa lươn ra ương trong bể lót bạt (có kích thước 2 m x 3 m). Giá thể trong giai đoạn này là lá chuối khô, ngâm nước khoảng 7 ngày trước khi sử dụng. Thức ăn cho lươn ăn là ốc, cá luộc chín và xây nhuyễn. Sau khi cho thức ăn vào bể phải quan sát sức bắt mồi của lươn để điều chỉnh lượng thức ăn cho hợp lý.
Đến ngày 04/10/2012, sau thời gian ương nuôi khoảng 4 tháng, anh Mol tiến hành thu hoạch lươn giống để chuyển sang giai đoạn nuôi thương phẩm. Số lượng lươn giống thu hoạch được: 846 con (tỷ lệ hao hụt: 57%), chiều dài trung bình: 28 cm, trọng lượng trung bình: 8,25 gam/con.
Mô hình ương nuôi lươn giống nhân tạo của anh Nguyễn Văn Mol tuy chưa đánh giá được hiệu quả kinh tế nhưng đây là một mô hình mới cần được so sánh với những mô hình thử nghiệm khác để đánh giá, rút ra những kinh nghiệm nhằm cải tiến, nâng cao hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới.
Hy vọng trong một thời gian không xa, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực thủy sản sẽ tích cực nghiên cứu, hợp tác và chuyển giao đến nông dân những biện pháp kỹ thuật tiên tiến về sản xuất lươn giống nhân tạo nhằm từng bước xã hội hóa việc sinh sản và ương nuôi lươn giống như đã từng thực hiện việc xã hội hóa sinh sản cá tra nhân tạo để lươn giống nhân tạo sẽ dần thay thế nguồn lươn giống khai thác ở tự nhiên.