Nguồn lợi rong biển ở ĐBSCL
Bên cạnh khả năng hấp thu khí carbon rất lớn, thì rong biển còn tạo hệ sinh thái làm nơi cư trú, vườn ươm, bãi đẻ, thức ăn cho động vật biển; có vai trò lọc sinh học để cải thiện môi trường nước biển. Rong biển là nguồn nguyên liệu chiết xuất Agar (thực phẩm, môi trường nuôi cấy vi khuẩn, vỏ bọc thuốc, khuôn răng, chỉ khâu); Carrageenan (công nghệ thực phẩm như sữa, bánh, kem, coca, đồ hộp); Alginate, mannitol (thuốc phòng phóng xạ, huyết thanh nhân tạo).
Vì vậy, vai trò của rong biển đối với nuôi trồng thủy sản là rất lớn. Rong biển lọc sinh học với khả năng hấp thu N, P, kim loại nặng để cải thiện chất lượng nước nuôi trồng thủy sản. Nó hấp thu tia UV nên giảm sự xâm nhập của bức xạ tia cực tím vào nước nuôi trồng thủy sản. Rong biển là nguồn thức ăn tự nhiên, giá thể, nơi trú ẩn cho tôm, cá; môi trường cho nuôi kết hợp đa loài thân thiện môi trường, bền vững, thích ứng biến đổi khí hậu.
Vai trò của rong biển đối với nuôi trồng thủy sản là rất lớn
Ở ĐBSCL có 600.000 ha nuôi trồng thủy sản nước lợ với 90% tôm quảng canh và quảng canh cải tiến. Sản lượng rong biển tự nhiên ở ĐBSCL từ 4-10 triệu tấn, một nguồn lợi rất lớn. Chủ yếu gồm rong mền/rong xanh có 14 loài thuộc 3 giống (Cladophora, Chaetomorpha và Rhizoclonium); rong bún có 6 loài thuộc giống Enteromorpha; rong câu chỉ có 1 loài thuộc giống Gracilaria.
Nghiên cứu vai trò của rong và thực vật thủy sinh trong ao nuôi tôm quảng canh cải tiến ở Bạc Liêu, Cà Mau cho thấy, cải thiện chất lượng nước rất tốt; làm thức ăn trực tiếp và nơi trú ẩn cho cá, tôm, cua. Khảo sát ý kiến của nông hộ về rong và thực vật thủy sinh trong ao nuôi tôm quảng canh cải tiến, có 75% đánh giá rất có lợi, thích được duy trì trong ao nuôi tôm. Đặc biệt rong biển có tiềm năng lớn phát triển nuôi kết hợp với tôm, cá.
Nghiên cứu nuôi tôm kết hợp rong câu chỉ, rong nho
Các nhà khoa học đã nghiên cứu khả năng hấp thụ đạm (N) và lân (P) trong nước thải tôm sú thâm canh của rong câu chỉ. Hệ thống thí nghiệm bố trí ngoài trời, phía trên có mái che bạt nilon trong, bể 150 lít, thể tích nước 120 lít, độ mặn tương tự với độ mặn nước thải (15‰). Nồng độ ban đầu (trước khi thí nghiệm) của nước thải nuôi tôm sú thâm canh thu ở Bạc Liêu: TAN 4,64 mg/L, NO3- 5,62 mg/L, Nitơ tổng TN 14,86 mg/L, PO4 3- 2,04 mg/L và lân tổng TP 5,76 mg/L. Sau 7 ngày xử lý, nước đạt tiêu chuẩn QCVN 02 -19: 2014/BNNPTNT có thể cấp trở lại ao nuôi với chuẩn cho phép TAN chỉ còn 0,3 mg/L.
Nghiên cứu ương giống tôm sú/tôm thẻ kết hợp rong câu chỉ với các mật độ khác nhau. Thí nghiệm 2 nhân tố: 3 mật độ tôm (1.000, 2.000 và 3.000 con/m3) kết hợp 4 mật độ rong câu chỉ (0,1; 1,5 và 2 kg/m3). Thời gian ương 30 ngày, tôm được gây cảm nhiễm với vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus trong 14 ngày. Đánh giá chất lượng tôm sau 30 ngày ương thông qua gây cảm nhiễm 14 ngày: Tỉ lệ chết tích lũy của tôm giống sau khi gây cảm nhiễm với Vibrio parahaemolyticus ở nghiệm thức kết hợp tôm với rong thấp hơn so với nghiệm thức nuôi đơn.
Ứng dụng nuôi kết hợp tôm sú với rong câu chỉ trong ao quảng canh cải tiến ở Bạc Liêu và Cà Mau trong 6 tháng, quy mô nông hộ. Gồm 2 nhóm: không cho ăn và có cho ăn bổ sung (50% khẩu phần ăn). Diện tích ao nuôi từ 1 -1,5 ha/hộ, mật độ nuôi 4 con/m2. Tổng hợp kết quả chính mô hình thực nghiệm sau 6 tháng: Tỉ suất lợi nhuận khi không cho ăn là 4,84±1,15 lần; cao hơn khi có cho ăn bổ sung chỉ 4,35±0,80 lần.
Rong nho và sản phẩm rong nho được trồng tại ao nuôi tôm. Ảnh: danviet.vn
Thực nghiệm nuôi kết hợp tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) với rong nho (Caulerpa lentillifera); theo các mật độ rong nho khác nhau và các mật độ tôm thẻ chân trắng khác nhau. Sau các vụ cũng cho kết quả tốt với lợi nhuận cao.
Các nhà khoa học còn thử nghiệm trồng rong nho (Caulerpa lentillifera) trong bể lót bạt tại Vĩnh Châu, Sóc Trăng. Bể lót bạt 16m2, mức nước 60 - 80 cm, độ mặn 28-35‰; mật độ rong giống ban đầu 1 kg/m2. Thời gian trồng 45 ngày. Thu được năng suất thân đứng 7-10 kg/m2, tỉ lệ thân đứng trên toàn tản rong 70-85%, chiều dài thân đứng thương phẩm 6-9 cm. Kết quả cho hiệu quả kinh tế cao.
Kết luận
Qua các thực nghiệm nghiên cứu mấy năm ở Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, các nhà khoa học kết luận: Rong câu chỉ (Gracilaria tenuistipitata) là loài tiềm năng trong mô hình nuôi kết hợp với tôm ở vùng nước lợ ĐBSCL. Rong nho (Caulerpa lentillifera) là loài tiềm năng nuôi trồng đơn và trong mô hình nuôi kết hợp với tôm, cá tại vùng có độ mặn cao ở ĐBSCL.
Các nhà khoa học khuyến nghị, cần phát triển mô hình trồng rong biển và mô hình nuôi kết hợp rong biển với tôm, cá ở ĐBSCL để giảm phát thải, thích ứng biến đổi khí hậu, bền vững, hướng đến mô hình kinh tế tuần hoàn trong thuỷ sản.