Cá rô phi là loài thủy sản có vây quan trọng thứ hai trên toàn thế giới do mang lại nguồn protein chất lượng cao, dinh dưỡng tốt. Tuy nhiên, việc sản xuất thâm canh và số lượng trang trại nuôi cá rô phi ngày càng tăng đã dẫn đến sự xuất hiện của các bệnh truyền nhiễm. Trong số tất cả các bệnh truyền nhiễm cản trở trong nuôi cá rô phi, TiLV thu hút nhiều sự chú ý do sự xuất hiện phổ biến của nó và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế.
Dưới kính hiển vi điện tử cho thấy TiLV (virus RNA ) là một virion hình tròn có đường kính 55–100 nm.
Tình hình bệnh TiLV trên thế giới
Tháng 4 năm 2020, 16 quốc gia đã báo cáo TiLV bao gồm: Colombia, Ecuador, Ai Cập, Israel, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Peru, Philippines, Thái Lan, Tanzania và Uganda, Đài Bắc Trung Hoa và gần đây nhất là Mexico và Hoa Kỳ và Bangladesh. Rất có thể, sự phân bố theo địa lý của TiLV còn rộng hơn nhiều.
Tỷ lệ tử vong ở cá nhiễm bệnh khác nhau giữa các khu vực trên thế giới. Ví dụ, tỷ lệ tử vong cao từ 10% đến 80% ở Ecuador, 20% –90% ở Thái Lan và 80% đến 90% ở Ấn Độ, trong khi tỷ lệ tử vong thấp hơn 6,4% ở Đài Bắc Trung Hoa, 0,71% cá rô phi tự nhiên và 15% cá rô phi nuôi ở Malaysia và 0–2,7% ở Mexico. Ở Thái Lan, tỷ lệ chết cao xảy ra trong tháng đầu tiên sau khi chuyển cá bột hoặc cá rô phi con từ trại giống sang lồng nuôi thương phẩm. Thông thường, người nuôi nhận thấy cá bị bệnh ở giai đoạn đầu của đợt bùng phát, bệnh lây lan nhanh chóng và tỷ lệ chết xảy ra trong vòng 4–10 ngày. Tỷ lệ tử vong thường dừng lại trong vòng 21–28 ngày.
Nguyên nhân của sự khác biệt lớn về tỷ lệ chết được báo cáo phần lớn chưa được khám phá, nhưng nó có thể liên quan đến các dòng cá. Cụ thể, tỷ lệ chết cao với tỷ lệ sống sót 20% được báo cáo ở dòng cá rô phi Chitralada so với tỷ lệ sống sót 80% –90% ở dòng cá đực (GMT) ở Ecuador. Có thể có nhiều yếu tố khác nhau góp phần vào tỷ lệ chết cao của cá khi bị nhiễm TiLV, chẳng hạn như cá đồng nhiễm giữa TiLV và các vi khuẩn hoặc ký sinh trùng khác trong các đợt bùng phát TiLV (phổ biến nhất là đồng nhiễm với Aeromonas).
Các loài cảm nhiễm
TiLV có thể gây bệnh cho nhiều loài khác nhau bằng cách lây nhiễm tự nhiên hoặc lây nhiễm thực nghiệm. TiLV lây nhiễm cho cá rô phi lai, cá diêu hồng, cá rô phi Mango, cá rô phi đỏ, cá rô phi xanh. Bên cạnh cá rô phi, sự lây nhiễm tự nhiên của TiLV đã phát hiện ở cá tai tượng.
Tuy nhiên, hầu hết các loài cá nước ấm bao gồm cá sặc rằn, cá tra, cá trê vàng, cá lóc đồng, cá rô đồng, cá chép, cá mè vinh và cá chẽm có khả năng kháng vi rút TiLV trong các nghiên cứu thực nghiệm. Lý do có thể là do không có các thụ thể hoặc cơ chế cho phép vi rút nhân lên ở những loài này. Do đó, những con cá này không có khả năng là vật mang TiLV. Tuy nhiên, một số yếu tố chẳng hạn như căng thẳng, đồng nhiễm và các yếu tố môi trường, có thể làm tăng tính nhạy cảm với bệnh của cá.
Dấu hiệu lâm sàng và tổn thương đại thể
Các bệnh tích thường gặp của cá nhiễm TiLV bao gồm: da bị bào mòn, nhợt nhạt (cá diêu hồng) hoặc màu sẫm (cá rô phi); các nốt xuất huyết ở gốc vây và vòi trứng; mất vảy và bong vảy, bụng sưng do tích tụ chất lỏng trong khoang bụng. Tổn thương ở mắt như: lồi mắt, co rút nhãn cầu trong nhiễm trùng cấp tính và đục thủy tinh thể. Hành vi bất thường của cá bị nhiễm bệnh: lờ đờ và chán ăn; bơi ở mặt nước; mất thăng bằng khi bơi. Tuy nhiên, các dấu hiệu lâm sàng được mô tả của nhiễm trùng TiLV có thể thay đổi tùy theo vị trí địa lý.
Tổn thương mô học và các cơ quan bị ảnh hưởng
TiLV tấn công vào các cơ quan nội tạng khác nhau của cá như: não, gan, lá lách, mắt và thận. Một trong những tổn thương mô bệnh học phổ biến nhất ở cá nhiễm TiLV là viêm gan hợp bào, một đặc điểm được mô tả bởi sự hình thành đa nhân trong một tế bào gan.
Ngoài ra, sự hình thành tế bào hợp bào cũng được tìm thấy trong não của cá thử nghiệm ở Ấn Độ. Sự hiện diện của các thể vùi trong tế bào chất và sự hình thành tế bào hợp bào trong tế bào gan của cá bị nhiễm bệnh. Hơn nữa, hoại tử các tuyến dạ dày và tắc nghẽn trong nhiều mô trên cá rô phi ở Ecuador. Các phát hiện mô bệnh học khác được báo cáo từ Thái Lan bao gồm tế bào chất sủi bọt ở gan, hoại tử tuyến tụy nghiêm trọng, thâm nhiễm tế bào lympho ở một số khu vực của ống thận và sự hình thành tế bào hợp bào nằm ở vùng viêm trong não của cá bị nhiễm bệnh.
(a) Xuất huyết, bong vảy ở cá diêu hồng, (b) xuất huyết xung quanh mắt và lỗ mũi, (c) gan tái và to, (d) sự hình thành tế bào hợp bào trong gan (mũi tên), (e) hạt virut (virion) được bao bọc với kích thước 80 nm.
Các con đường truyền lây
Sự truyền TiLV có thể xảy ra theo chiều ngang và chiều dọc. Việc phát hiệnTiLV ở cá bột 2 ngày tuổi, trong tinh hoàn và buồng trứng cho thấy TiLV đã chuyển từ cá bố mẹ bị nhiễm bệnh sang cá con. Các loài khác, chẳng hạn như động vật thân mềm, côn trùng dưới nước và động vật không xương sống, là những ứng cử viên tiềm năng để trở thành vật mang TiLV. Tuy nhiên, không có phát hiện RNA của TiLV trong nhuyễn thể và ký sinh trùng trên cá.
Ban đầu TiLV xâm nhập vào cá qua đường miệng hoặc trực tiếp ở mang sau đó phân phối có hệ thống đến các cơ quan nội tạng khác (lá lách, gan, thận và tuyến sinh dục). Vi-rút đi theo chất nhầy hoặc phân lây lan cho trứng và cá con.
Cơ chế sinh bệnh và lây lan của virus TiLV.
Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh
Cho đến nay, không có liệu pháp hoặc vắc-xin thương mại nào chống lại TiLV.
- Một nghiên cứu gần đây cho thấy TiLV có nguy cơ lây lan qua các sản phẩm cá rô phi đông lạnh và do đó các quy định nghiêm ngặt phải được tập trung vào việc vận chuyển cá. Các quy trình như vậy phải bao gồm việc kiểm tra vi rút trước khi vận chuyển cá, theo dõi và giám sát dịch bệnh thường xuyên tại các khu vực lưu hành của TiLV.
- Hiện tại, cả vắc xin TiLV giảm độc lực và bất hoạt dựa trên các chế phẩm nuôi cấy tế bào đang được sản xuất và đã được thử nghiệm hiệu quả. Từ vài năm nay công ty KoVax Co., Ltd ở Israel đang nghiên cứu vắc xin ngâm giảm độc lực của TiLV. Hơn nữa, một số phòng thí nghiệm nghiên cứu vắc xin TiLV bất hoạt bằng formalin giúp tăng tỷ lệ sống sót lên đến 60% –70%. Tuy nhiên, cơ chế đằng sau sự bảo vệ này cần được điều tra thêm. Một cơ chế khả thi là sự phát triển của các kháng thể bảo vệ như IgM.
- Ngành nuôi trồng thủy sản ngày càng chú ý đến việc lai tạo chọn lọc dòng cá kháng TiLV. Một nghiên cứu gần đây cho rằng cá rô phi từ dòng GIFT có đặc điểm di truyền liên quan đến tính kháng TiLV, nhưng không có chương trình nhân giống toàn diện nào để chọn lọc cá rô phi chống chịu với TiLV. Chính vì thế việc nuôi cá bố mẹ không có TiLV có tiềm năng rất lớn trong việc ngăn chặn vi rút.
- Cần phải có hành động kịp thời để giảm thiệt hại kinh tế khi TiLV bùng phát bao gồm: nhanh chóng loại bỏ cá chết, tránh chuyển cá nhiễm bệnh sang ao hoặc địa điểm khác, duy trì chất lượng nước thích hợp và giảm căng thẳng cho cá. Nhìn chung, các hướng dẫn này có thể được thực hiện để ngăn chặn vi rút lây lan trong trang trại hoặc địa phương.
- Các chất khử trùng thông thường nên được sử dụng trong trang trại để giảm sự bùng phát của virus và hạn chế sự lây lan của virus. Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng các chất khử trùng thông thường có khả năng giảm TiLV đến mức tối thiểu. Cụ thể: 2,5ppm iodine, 10ppm NaOCl, 300ppm H2O2 đều đủ để bất hoạt vi rút hơn 50%khi được sử dụng trong 10 phút ở 28°C. Trong khi formalin ở 80ppm cần lâu hơn 60 phút ở 28°C để vô hoạt hoàn toàn. Một nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng TiLV nhạy cảm với phức hợp đệm povidone-iodine và clo.