Liên kết lỏng lẻo, người nuôi cá tra chịu thiệt

Nhiều ý kiến cho rằng, khó khăn trong việc vay vốn sản xuất đang khiến cả doanh nghiệp (DN) và người nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) lâm vào tình trạng khó khăn vì thua lỗ, treo ao, thiếu nguyên liệu chế biến. Tuy nhiên, thực tế thấy, hầu hết những khúc mắc này lại xuất phát từ mối liên kết lỏng lẻo, không sòng phẳng giữa DN và nông dân.

người nuôi cá tra chịu thiệt
Người nuôi cá tra luôn chịu thiệt trong mối liên kết với DN.

Dân chịu thiệt trong “liên kết dọc”

Ghi nhận tại một số khu vực nuôi cá tra trọng điểm ở An Giang và Cần Thơ thấy, do không đủ vốn đầu tư ao nuôi nên hầu hết các hộ phải liên kết với các DN chế biến thuỷ sản hoặc đại lý bán thức ăn chăn nuôi. Tuy nhiên, trong mối quan hệ này, nông dân luôn ở thế bị động và chịu thiệt thòi.

Ông Nguyễn Văn Tâm, người nuôi cá tra lâu năm tại huyện Thốt Nốt (TP. Cần Thơ) cho biết, hiện có 2 hình thức hợp tác nuôi cá tra giữa DN và nông dân. Thứ nhất là DN giao nguyên liệu, nhận thành phẩm. DN đầu tư cho nông dân vốn với mức 3.300 - 5.000 đồng/kg cá thành phẩm (tùy DN). Số tiền này người dân tự mua con giống, thuốc thú y, thức ăn, thuê nhân công và chịu các chi phí khác. Bên cạnh đó, DN cũng sẽ cung cấp cho người nuôi lượng thức ăn thủy sản (khoảng 1,6kg thức ăn/kg cá). Thứ hai là DN chọn những người nuôi có năng lực nhưng thiếu vốn ở giai đoạn cuối để hợp tác. Theo đó, người nuôi phải lo từ con giống, ao nuôi, đến khi cá đạt trọng lượng từ 0,5kg/con trở lên thì được DN tiếp sức bằng cách đầu tư thức ăn, giá thu mua cá sẽ được tính theo giá thị trường.

Do thiếu vốn ở giai đoạn đầu nên hiện nay, đa số người nuôi chọn hình thức hợp tác thứ nhất, mặc dù lợi nhuận thu được ít hơn. Tuy nhiên, theo ông Tâm, dù ở hình thức nào thì nông dân cũng bị động, phải chịu nhiều rủi ro như dịch bệnh, hao hụt, nhưng nếu không hợp tác thì chỉ có nước… treo ao vì không đủ vốn.

Tương tự, bà Phạm Thị Thẳng ở xã Vĩnh Thạnh Trung (Châu Phú - An Giang) cho rằng, hợp đồng ràng buộc giữa DN và người nuôi hiện nay chỉ mang tính chiếu lệ, hình thức, bởi trong mối quan hệ với DN, người nuôi luôn nắm “đằng lưỡi”. Trong hợp đồng, mặc dù DN thoả thuận sẽ thanh toán 20-30% số tiền sau khi bắt cá và thanh toán hết sau 1 tháng, nhưng thực tế thấy, nếu may mắn thì sau 5-6 tháng, người dân mới nhận được tiền, còn nếu không may gặp các DN làm ăn thua lỗ thì bị chiếm dụng vốn, quỵt nợ. Hậu quả là, người nuôi vừa cạn vốn, vừa mắc nợ ngân hàng, không thể đầu tư nuôi trở lại.

“Bây giờ điều nông dân quan tâm nhất là Nhà nước giám sát việc DN mua cá của dân. Thực tế là công ty nào cũng chiếm dụng vốn, nhất là những công ty nhỏ, thường chỉ trả 50% tiền cá, sau đó bỏ trốn hoặc chây ỳ khiến nhiều hộ phải bán cả nhà, đất để trả nợ vay”, bà Thẳng nói.

nguoi nuoi ca tra

Việc DN chế biến thuỷ sản chiếm dụng vốn của người dân thường bắt nguồn từ mối liên kết lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm giữa DN và người nuôi. Hầu hết người nuôi khi được hỏi đều cho biết, họ ít có điều kiện tìm hiểu thông tin về DN mà chỉ thông qua quen biết, mối lái rồi dựa vào cảm tính để hợp tác với DN. Đến khi DN thua lỗ, vỡ nợ bỏ trốn thì bà con mới biết mình bị lừa. Không ít hộ đã đầu tư tiền tỷ để nuôi cá, sau khi bị DN chiếm dụng vốn đã tán gia bại sản, trở thành nợ xấu của ngân hàng (NH).

Trao đổi với phóng viên về điều này, ông Nguyễn Ngọc Hải, Chủ nhiệm HTX thủy sản Thới An (quận Ô Môn - TP. Cần Thơ) cho rằng: Thời gian qua có nhiều DN thuỷ sản làm ăn thua lỗ, dẫn đến phá sản, khi vỡ lở mới biết họ dùng tiền vốn NH và chiếm dụng vốn của người dân để đầu tư vào các lĩnh vực khác như bất động sản, chứng khoán. “Chính vì thế, chúng ta cần đặt dấu hỏi xem, khoản vốn vay 38.000 tỷ đồng giải cứu cá tra tính đến tháng 9/2012 như công bố của Ngân hàng Nhà nước có được DN sử dụng đúng mục đích hay không”, ông Hải nhấn mạnh.

Cùng quan điểm với ông Hải, ông Dương Ngọc Minh, Phó chủ tịch Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cho rằng, việc đầu tư “ngoài luồng” của DN thuỷ sản đối với nguồn vốn vay ưu đãi từ các NH cần được xem xét và giám sát lại. Không loại trừ một số công ty và cá nhân đã lập dự án kinh doanh cá tra để vay vốn, nhưng lại đầu tư vào ngành khác, chưa kể có những DN “đã chết” từ vài năm nay nhưng NH ngại nợ xấu, không dám công bố nên vẫn đưa dư nợ của họ vào doanh số cho vay.

Cần NH làm cổ đông

Theo ông Minh, ngành NH cần rà soát lại việc cấp vốn đầu tư cho DN trong thời gian qua, để từ đó cùng ngành xuất khẩu thủy sản cơ cấu lại nhằm hoạt động tốt hơn. Trên cơ sở rà soát, những DN đầu tư đúng hướng, phát triển ổn định thì các NH nên mạnh dạn đầu tư vốn, còn DN đầu tư sai mục đích, thua lỗ thì để các DN lớn mua lại nhằm khôi phục sản xuất. Trong trường hợp này, NH nên chấp nhận lỗ, mua lại khoản nợ trước đây rồi bán cho các DN phát triển bền vững, chỉ với cách đó thì NH mới có khả năng thu hồi nợ.

Ông Minh cho rằng, hiện đang có nhiều DN thua lỗ tham gia vào ngành chế biến, xuất khẩu thủy sản, khiến nội bộ ngành bị mất ổn định nghiêm trọng. Nếu không mạnh dạn tái cơ cấu ngay từ bây giờ thì những tháng tiếp theo của năm 2013, tình trạng thiếu nguyên liệu chắc chắn sẽ xảy ra. Rủi ro về mặt giá cả, khả năng chậm thanh toán sẽ khiến nông dân không mặn mà với việc nuôi cá, hệ quả là giá đầu vào, đầu ra sẽ có nhiều biến động, tạo cơ hội cho các DN chiếm dụng vốn lẫn nhau và dễ dẫn đến việc không kiểm soát được thị trường.

“Hiện, các DN ngành cá tra được chia thành ba nhóm rõ rệt. Nhóm A gồm khoảng 10 DN lớn có thị trường XK, có vùng nuôi riêng, không bị mất vốn. Đối với nhóm này, các NH nên tiếp tục bơm vốn, làm “đầu tàu” để kéo cả thị trường. Nhóm B là các DN cũng có thị trường, có vùng nuôi nhưng bị hụt vốn lưu động (chiếm khoảng 50% nhà máy) thì các NH cần xem xét tình hình sản xuất kinh doanh của từng DN để tìm cách tháo gỡ. Tốt nhất là NH chủ động cơ cấu lại bằng cách chuyển nợ thành vốn góp cổ phần để tham gia trực tiếp vào việc quản lý nhà máy, từ đó sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả. Riêng đối với các DN nhóm C, tức là các DN ra đời bằng vốn kích cầu giai đoạn 2008-2009 đã cạn vốn 2-3 năm nay thì nên chấp nhận cho phá sản để không tạo thêm nợ xấu cho NH, cũng như giảm thiểu nguy cơ chiếm dụng vốn của người nuôi cá”, ông Minh nói.

Kinh Tế Nông Thôn
Đăng ngày 03/05/2013
Minh Tuấn
Kinh tế

Xuất khẩu một tháng trở lại tỷ đô sau 27 tháng

Tháng 10/2024, xuất khẩu thủy sản 1,1 tỷ USD, tăng gần 31% so với cùng kỳ năm ngoái và đây là lần đầu tiên sau 27 tháng kể từ tháng 6/2022 đã trở lại mức tỷ đô một tháng. Lũy kế 10 tháng đầu năm 2024 đạt 8,33 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái với các mặt hàng chủ lực và các thị trường chính đều tăng.

Tôm thẻ
• 10:00 25/11/2024

Điểm mặt rào cản chuyển đổi xanh trong chế biến tôm đông lạnh

Chuyển đổi xanh trong ngành chế biến thủy sản, đặc biệt là tôm đông lạnh, không chỉ là xu hướng mà còn là yêu cầu tất yếu trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng khắt khe từ thị trường quốc tế. Tuy nhiên, hành trình này đang gặp nhiều rào cản lớn liên quan đến chi phí, cơ sở hạ tầng và quản lý năng lượng.

Chế biến tôm
• 10:29 21/11/2024

Cua ghẹ Việt Nam tăng trưởng ấn tượng khi hút hàng tại Trung Quốc

Xuất khẩu cua ghẹ và các loại giáp xác khác của Việt Nam đang có sự bứt phá ngoạn mục trên thị trường quốc tế, đặc biệt là tại Trung Quốc. Số liệu từ tháng 9/2024 cho thấy, ngành hàng này tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, mở ra nhiều cơ hội phát triển trong thời gian tới.

Ghẹ
• 09:34 20/11/2024

Xuất khẩu cua ghẹ và nhuyễn thể tiếp tục tăng từ đầu năm đến nay

Ngành thủy sản Việt Nam đã ghi nhận những tín hiệu khả quan trong xuất khẩu, đặc biệt đối với nhóm sản phẩm cua ghẹ và nhuyễn thể có vỏ. Theo thông tin từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thủy sản cả nước đã đạt mức ấn tượng trong tháng 10/2024, với kim ngạch hơn 1 tỷ USD, tăng 28% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nhuyễn thể
• 11:14 18/11/2024

Chính thức mở bán: "Thực hành Chẩn đoán bệnh trên động vật thủy sản"

Ngành nuôi trồng thủy sản Việt Nam đang cần giải pháp thực tế để vượt qua thách thức cần đối mặt để đạt được sản lượng, chất lượng đáp ứng nhu cầu thị trường lúc này.

Sách Thực hành chẩn đoán bệnh trên động vật thủy sản
• 06:59 26/11/2024

Hạn chế sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản

Hạn chế sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thủy sản là một vấn đề quan trọng nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng và bảo vệ môi trường.

Kháng sinh
• 06:59 26/11/2024

Nâng cao hiệu quả trong khai thác thủy sản

Để nâng cao hiệu quả khai thác thủy sản, cần áp dụng các giải pháp đồng bộ từ việc áp dụng công nghệ tiên tiến đến việc cải thiện quản lý nguồn lợi thủy sản và bảo vệ môi trường.

Thu hoạch thủy sản
• 06:59 26/11/2024

Tạo rào cản cho vi khuẩn hạn chế xâm nhập vào tôm

Một trong những thách thức lớn nhất mà người nuôi phải đối mặt là các bệnh do vi khuẩn gây ra, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và năng suất của tôm.

Tôm thẻ
• 06:59 26/11/2024

Xuất khẩu một tháng trở lại tỷ đô sau 27 tháng

Tháng 10/2024, xuất khẩu thủy sản 1,1 tỷ USD, tăng gần 31% so với cùng kỳ năm ngoái và đây là lần đầu tiên sau 27 tháng kể từ tháng 6/2022 đã trở lại mức tỷ đô một tháng. Lũy kế 10 tháng đầu năm 2024 đạt 8,33 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm ngoái với các mặt hàng chủ lực và các thị trường chính đều tăng.

Tôm thẻ
• 06:59 26/11/2024
Some text some message..