1. Aeromonas Salmonicida
Aeromonas salmonicida là tác nhân gây ra bệnh furunculosis đặc trưng (furunculosis là một bệnh trên da cá xuất hiện vô số cá hạt mụn nhỏ và lở loét). A. salmonicida tạo ra nhiều enzyme proteaza ngoại bào và các chất độc có ảnh hưởng đến các loại tế bào cá khác nhau.
Từ năm 1994, một loại kit thăm dò đã được sử dụng để phát hiện A. salmonicida trong nước thải, nước nuôi, phân và mẫu trầm tích từ các trại giống cá hồi Đại Tây Dương (O'Brien và cộng sự, 1994). Bằng phương pháp này O'Brien và cộng sự. (1994) đã phát hiện mối tương quan giữa mầm bệnh và biểu hiện ngoài.
Tiêu chuẩn hình thái khuẩn lạc và enzyme-linked immunosorbent assay (ELISA) đã được sử dụng để phát hiện A. salmonicida trong các mẫu thận, ruột và chất nhầy của cá hồi Đại Tây Dương (Hiney và cộng sự, 1994). Các tác giả này gợi ý rằng ruột có thể là vị trí chính của A. salmonicida sau đó là chất nhầy, vây và mang. Inastudyon Arcticcharr (Salvelinus alpinusL). Biểu mô trung vị của cá bị nhiễm bệnh có số lượng tế bào mầm cao hơn (tế bào sản sinh chất nhầy), và vi khuẩn được tìm thấy tập trung ở các biểu mô.
Cá hồi bị nhiễm A. Salmonicida (Nguôn: Internet)
Các nghiên cứu khác đã tìm hiểu các tuyến lây nhiễm ở cá hồi Đại Tây Dương sau khi tắm và thử nghiệm trong ruột với A. salmonicida (Rose và cộng sự, 1989). Kết quả của nghiên cứu này cho thấy nhiễm A. salmonicida có thể xảy ra do ăn phải thức ăn nhiễm khuẩn và sau khi mầm bệnh tiếp xúc với biểu bì. Jutfelt và các đồng nghiệp nghiên cứu sự dịch chuyển của A. salmonicida có thể sống được qua ruột của cá hồi vân (Jutfelt và cộng sự, 2006; 2008).
Vi khuẩn này dường như sử dụng một số cơ chế cho sự chuyển vị này bao gồm các protein bề mặt và các protein bị tiết ra (Jutfelt và cộng sự 2008, Dacanay và cộng sự, 2010). Ring và cộng tác viên. (2004) đã quan sát những tổn thương tế bào đáng kể trong cá hồi Đại Tây Dương sau khi nhiễm A. salmonicida. Biểu bỉ ruột bị tách ra khỏi vùng ruột trước, trong khi ở ruột sau ít bị tổn thương hơn.
2. Aeromonas hydrophila
Aeromonas hydrophila là một vi khuẩn Gram âm di động có thể gây bệnh cả nước ấm và cá nước lạnh. Nhìn chung, A. hydrophila không gây bệnh ở cá khỏe mạnh.
Vi khuẩn này đã được báo cáo là một mầm bệnh thứ cấp hoặc một mầm bệnh cơ hội trong các tình huống cá bị sốc như mức oxy thấp, biến động nhiệt và sinh sản (Harikrishnan và Balasundaram 2005).
Theo báo cáo của Hazen và cộng sự (1982), các dòng phân lập của A. hydrophila từ các vết thương của cá có chỉ số Chemotactic cao hơn đáng kể để tạo ra nhiều chất nhầy hơn so với các dòng phân lập của A. hydrophila từ nước. Trong một nghiên cứu gần đây, chemotaxis hướng tới, bám dính vào và tăng cao ở chất nhầy ruột cá chép (Cyprinus carpio) của hai chủng A. hydrophila được khảo sát (Van der Marel và cộng sự, 2008). Cả hai chủng không di chuyển về phía chất nhầy, nhưng chủng gây bệnh của hai loài cho thấy độ bám dính cao hơn 13 lần với chất nhầy. Theo các nhà nghiên cứu, sự nhân lên nhanh chóng của vi khuẩn trong chất nhầy có thể làm tăng khả năng gây bệnh do sự ăn mòn chất nhầy và giảm hiệu quả kinh tế đối với người nuôi (Van der Marel và cộng sự, 2008).
Mặc dù có những dữ liệu thú vị này, người ta đã gợi ý rằng da và biểu mô da là những con đường chính cho các loài A. hydrophila xâm nhập gây hại cá chép (Chu và Lu, 2008). Các nghiên cứu trong tương lai về tính gây bệnh của A. hydrophila đang rất được khuyến cáo.
Edwardsiella spp.
Các thành viên của chi Edwardsiella là trực khuẩn gram âm, không sinh bào tử, có khả năng di động, yếm khí tùy nghi. Có ba loài trong chi và hai trong số đó là gây bệnh cho cá: Edwardsiella ictaluri và Edwardsiella tarda.
1. Edwardsiella ictaluri
Bệnh gan thận mủ trên cá tra (Nguồn: Internet)
Edwardsiella ictaluri là tác nhân gây nhiễm trùng đường ruột của cá Tra (ESC) hay bệnh gan thận mủ, có thể gây tử vong rất cao (Thune và cộng sự 1993, Birkbeck và Ring 2005). Sinh học về bệnh của ESC được nghiên cứu trước đây do nhiễm trùng thực nghiệm cá trê kênh (Ictalurus punctatus Rafinesque) qua đường ruột và nước (Shotts và cộng sự, 1986). Cá bị lộ ra có dấu hiệu nhiễm trùng toàn thân trong vòng 2 tuần, bị viêm ruột, viêm gan, viêm thận kẽ và viêm cơ. Ngoài ra, vi khuẩn đã được quan sát thấy ở niêm mạc ruột, và sau đó nó đã được chứng minh rằng E. ictaluri có thể xâm nhập, tồn tại và sao chép trong các đại thực bào của cá da trơn (Booth và cộng sự, 2006).
2. Edwardsiella tarda
Edwardsiella tarda là một mầm bệnh của một số loài cá như cá chépcá đối (Mugil cephalus L.), cá rô phi (Tilapia mossambica Peters), chình Nhật Bản (Anguilla japonica Temminck và Schlegel), cá da trơn và cá bơn Nhật Bản (Thune và cộng sự, 1993).
Đặc điểm sinh học bệnh của Edwardsiellosis thực nghiệm đã được nghiên cứu trong cá bơn Nhật Bản bằng cách tiêm màng bụng, ngâm và đường miệng (Rashid và cộng sự, 1997). Sự hiện diện của E. tarda trong các mô ruột, gan và thận luôn cao hơn so với trong máu. Kiểm tra mô bệnh học cho thấy những dấu hiệu hoại tử lớn trong gan và thận, hoại tử nhỏ ở biểu mô và lớp đệm niêm mạc ruột.
Trong một nghiên cứu khác, sự xâm nhập của E. tarda trong cá cẩm thạch đã được nghiên cứu bằng cách ngâm (Ling và cộng sự, 2001.); các vi khuẩn được phát hiện trong tất cả các bộ phận của cá chỉ một ngày sau khi tiếp xúc, với mật độ vi khuẩn cao nhất trong phần trước của ruột. Vào ngày thứ bảy, số vi khuẩn có mặt ở tất cả các cơ quan được nghiên cứu.