Sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá Lăng chấm thành công

Phú Thọ có 3 con sông lớn thuộc hệ thống sông Hồng chảy qua là sông Lô, sông Đà, sông Thao và hệ thống sông nhỏ, ngòi lớn như sông Chảy, sông Bứa, ngòi Giành, ngòi Me..., là nơi cư trú và sinh sản của nhiều loài thủy sản, tạo nên khu hệ cá tự nhiên vô cùng phong phú, trong đó có nhiều loài cá bản địa có giá trị cao trong phát triển kinh tế như: Cá Anh Vũ, cá Chiên, cá Bò, cá Vền và đặc biệt là cá Lăng chấm là loài cá hoang dã có giá trị kinh tế cao.

Phú Thọ: Sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá Lăng chấm thành công
Tiến hành mổ cá đực lấy tuyến sẹ để thụ tinh cho trứng trong quá trình thực hiện sinh sản nhân tạo cá Lăng chấm

Thịt cá Lăng chấm mềm, ít xương dăm, giá bán cao, được coi là loại đặc sản nước ngọt hàng đầu của miền Bắc. Trước đây trong những năm 1960 - 1970 sản lượng của cá Lăng chấm chiếm tỷ trọng khá lớn của sản lượng cá đánh bắt tự nhiên của một số tỉnh miền núi. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do ảnh hưởng của điều kiện môi trường bị suy thoái như nạn phá rừng, đắp đập và đãi vàng ở lòng sông, nhưng chủ yếu là do khai thác quá mức bằng những phương tiện hủy diệt nên sản lượng cá Lăng chấm giảm sút nghiêm trọng. Ngoài ra, cá Lăng chấm là loài cá có kích thước tương đối lớn, ham ăn mồi (là loài ăn thịt), sức sinh sản thấp nhưng việc tái tạo nguồn lợi thủy sản chưa được quan tâm nên sản lượng cá Lăng chấm giảm sút nghiêm trọng có thể dẫn tới nguy cơ bị tuyệt chủng.

Cá Lăng chấm là loài cá sinh sống ở sông, vì vậy phương thức nuôi cá lồng bè trên sông là phù hợp với tập tính sinh trưởng của cá Lăng chấm so với các phương thức khác. Ngoài ra, cá Lăng chấm cũng là loại cá bản địa của tỉnh Phú Thọ, với điều kiện thiên nhiên thuận lợi với hàng trăm km sông chảy qua sẽ là lợi thế lớn của tỉnh Phú Thọ so với các địa bàn tỉnh khác nếu chuyển đổi một phần cơ cấu nuôi cá truyền thống sang nuôi cá Lăng chấm.

Từ thực tiễn việc nuôi trồng thủy sản và định hướng phát triển thủy sản của tỉnh Phú Thọ gắn với việc tái cơ cấu ngành Thủy sản, được sự quan tâm của tỉnh Phú Thọ, giai đoạn từ năm 2017 - 2019 Công ty TNHH MTV Tư vấn dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao đã được giao thực hiện Dự án: “Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá Lăng chấm trên sông Lô tại tỉnh Phú Thọ”. Mục tiêu của dự án là tiếp thu và làm chủ được công nghệ sinh sản nhân tạo và công nghệ nuôi thương phẩm để xây dựng mô hình sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá Lăng chấm trong lồng trên sông Lô nhằm khai thác và phát triển giống cá có lợi thế của tỉnh, phục vụ Chương trình phát triển thủy sản tại tỉnh Phú Thọ. Dự án triển khai thực hiện song song hai mô hình đó là mô hình cho sinh sản nhân tạo để sản xuất giống Lăng chấm và mô hình nuôi thương phẩm cá Lăng chấm trong lồng trên sông.

Sau hơn hai năm rưỡi triển khai thực hiện, dự án đã mang lại những hiệu quả nhất định, hứa hẹn mô hình nuôi cá Lăng chấm có thể mở rộng thành mô hình nuôi đại trà cho người dân phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, bổ sung nguồn lợi thủy sản cho các sông hồ lớn đầu nguồn tỉnh Phú Thọ. 

Ở mô hình sinh sản nhân tạo, dự án đã triển khai thực hiện công nghệ sinh sản nhân tạo giống cá Lăng chấm theo công nghệ mới, phức tạp hơn so với công nghệ sản xuất cá giống trước đây. Quy trình công nghệ sinh sản nhân tạo cá Lăng chấm được tiến hành công đoạn đầu tiên là tuyển chọn, nuôi vỗ cá bố mẹ, tiếp đến kích thích sinh sản nhân tạo, thụ tinh nhân tạo, ấp trứng, ương cá bột lên cá hương, ương cá hương lên cá giống và cuối cùng là thu hoạch cá giống cung ứng cho người nuôi thương phẩm. Cá Lăng chấm bố mẹ được nuôi vỗ trong lồng trên sông có độ sâu nước từ 3m - 3,5m, cho ăn theo đúng chế độ dinh dưỡng. Sau khi nuôi vỗ, chọn lựa cá bố mẹ thành thục cho sinh sản nhân tạo. Tiêm kích dục tố cho cá đẻ bằng hormone LRHa kết hợp với Domperidone (25µg LRHa + 6 mg Dom).

Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo cá Lăng chấm khác so với một số loài cá khác do tuyến sinh dục cá Lăng chấm đực hình lược, lượng sẹ rất ít và không vuốt được như các loài cá chép, trôi, trắm cỏ… nên phải mổ cá đực để lấy tuyến sẹ, thụ tinh cho trứng bằng phương pháp thụ tinh khô. Cá đực sau khi khâu lại vết mổ có thể thả vào ao tiếp tục nuôi vỗ sử dụng cho những năm sau. Bằng phương pháp mổ cá đực lấy tuyến sẹ nghiền nhỏ để thụ tinh nhân tạo, công nghệ này đã khắc phục được tình trạng khó vuốt tinh khi thụ tinh nhân tạo ở các loại cá da trơn do buồng sẹ có nhiều nốt thắt. Để ấp trứng sử dụng bằng khay kích thước 0,40m x 0,25m x 0,05m với mật độ ấp từ 10 - 12 trứng/cm2 (tương đương 10.000 - 12.000 trứng/khay). Khay ấp trứng đặt trong bể sục khí và được sục khí thường xuyên để đảm bảo lượng ôxy hòa tan đạt trên 6mg/l . Trong quá trình ấp, loại bỏ trứng hỏng và trứng không thụ tinh bằng ống hút. Thay nước định kỳ 8 giờ/ lần, mỗi lần thay 1/2 - 2/3 lượng nước trong bể ấp. Trứng nở thành cá bột sẽ tiến hành ương cá bột thành cá hương. Cá bột mới nở đến 30 ngày tuổi được ương trong bể kính có diện tích 0,25 - 0,50m2, độ sâu mực nước 0,25m. Trước khi ương cá cần cọ rửa bể sạch sẽ và tẩy trùng sạch sẽ bằng Formalin với nồng độ 40ppm. Thức ăn cho cá bột là trùng chỉ và động vật phù du. Sau giai đoạn ương cá bột chuyển sang giai đoạn ương cá hương trong bể xi măng có diện tích 2 - 3m2, độ sâu 0,5 m để luyện cho cá ăn thức ăn chế biến tổng hợp .

Trong quá trình thực hiện dự án, Công ty TNHH MTV Tư vấn dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao đã cho 30 cá bố mẹ sinh sản (cá có trọng lượng trung bình >2,5kg/con); tỉ lệ cá đực/cái là 1:1,5 trong đó: 12 cá đực, 18 cá cái; cá khỏe mạnh, đồng đều về kích cỡ, thành thục tốt, đảm bảo lai xa tránh đồng huyết). Trong quá trình thụ tinh tỷ lệ cá cái đẻ: 14/18 con (80%) ; tổng số trứng đẻ: 82.013 quả; số trứng thụ tinh 40.462 (50%); số cá nở: 23.296 (trong đó: Cá bột: 21.702, cá dị hình: 1.594). Kết quả đã thu được 21.702 con cá bột, ương được 15.902 con cá hương. Nuôi từ cá hương lên cá giống được 10.500 con cá giống cỡ 4 - 6 cm, tỷ lệ sống 82%. Thành công trong việc sản xuất cá Lăng chấm giống bằng phương pháp nhân tạo mở ra triển vọng mới cho nghề nuôi thủy sản tỉnh Phú Thọ, người chăn nuôi có thể chủ động về con giống để phát triển nuôi thương phẩm trên diện rộng. 

Ở mô hình nuôi thương phẩm cá Lăng chấm bước đầu mang lại những thành công. Mô hình nuôi thử nghiệm ở 3 lồng cá trên sông với 3.000 con giống đã mang lại hiệu quả. Lồng được đặt ở nơi nước chảy không quá mạnh, lưu tốc dòng chảy 0,3 - 0,5m/giây; mật độ nuôi 7 con/m2. Trong quá trình nuôi thương phẩm thường xuyên theo dõi các chỉ tiêu sinh trưởng, môi trường như nhiệt độ, oxy, pH; hàng tuần thu mẫu và phân tích các chỉ tiêu thủy hóa như NH3, NO2, H2S đồng thời theo dõi khả năng sinh trưởng phát triển của cá bằng cách cân mẫu; theo dõi tiêu tốn thức ăn cho từng giai đoạn.

Sau hơn 2 năm nuôi trong lồng trên sông bằng nguồn thức ăn tươi sống có sẵn tại địa phương kết hợp với thức ăn công nghiệp bổ sung giai đoạn đầu đến nay cá đạt khối lượng trung bình lớn hơn 2,0 kg/con, đây là kết quả rất khả quan, tăng hơn nhiều so với mô hình nuôi cá Lăng chấm trong ao do Chi cục Thủy sản nuôi đã công bố. Trong quá trình nuôi, tỷ lệ cho ăn cần điều chỉnh tùy theo trọng lượng và thời tiết mùa vụ: Mùa hè cần cho ăn với tỷ lệ cho ăn cao hơn và cần có biện pháp phòng chống bệnh cho cá như thường xuyên treo túi vôi bột cạnh sàng ăn với lượng 2 - 4kg/túi/sàn; tiến hành bổ sung thêm vitamin và khoáng chất vào thức ăn để tăng sức đề kháng của cá. Các điều kiện môi trường thường xuyên được kiểm tra theo dõi để có biện pháp khắc phục và hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện nuôi trong lồng trên sông tại Phú Thọ.

Bên cạnh những thuận lợi như cá nuôi cá Lăng chấm ít bị bệnh, tỷ lệ sống cao, giá bán cao và dễ bán thì cũng còn những khó khăn cho người nuôi như môi trường nước sông nuôi cá Lăng chấm phải luôn trong sạch, giá mua con giống khá cao và thời gian nuôi dài (≥ 18 tháng) nên người nuôi cần phải có nhiều vốn và thời gian thu hồi vốn lâu. Chính vì vậy để phát triển nhân rộng mô hình nuôi cá Lăng chấm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cần sự hỗ trợ từ các nguồn vốn của nhà nước nhằm phát huy tốt tiềm năng nuôi cá nước ngọt, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho bà con nông dân.

Có thể nói, thành công của mô hình ứng dụng công nghệ sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm cá Lăng chấm trên sông Lô tại tỉnh Phú Thọ đã khẳng định thêm những bước tiến mới về sự trưởng thành và phát triển của đội ngũ các nhà nghiên cứu, nhà khoa học cũng như người dân trong quá trình tiếp cận với trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến. Góp phần nâng cao sản lượng sản phẩm thủy đặc sản có giá trị kinh tế cao trên địa bàn tỉnh, giúp cho phong trào nuôi cá lồng trên địa bàn tỉnh phát triển bền vững. Dần thay đổi tập quán nuôi, đưa áp dụng các quy trình kỹ thuật đảm bảo an toàn thực phẩm, hạn chế việc khai thác bừa bãi nguồn thủy sản ngoài tự nhiên, góp phần bảo tồn nhiều loài thủy sản quý hiếm. Từ đó, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho người nuôi trồng thủy sản, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hy vọng trong tương lai gần loài cá Lăng chấm sẽ trở thành đối tượng nuôi phổ biến, không chỉ mang lại lợi nhuận cao cho người nuôi mà còn góp phần bảo tồn giống cá quý.

Phú Thọ.GOV
Đăng ngày 13/06/2019
Khổng Mạnh Tiến - Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh
Nuôi trồng

Vai trò của chế phẩm sinh học trong phòng ngừa EHP

Hiện nay, EHP chưa có thuốc điều trị hiệu quả, vì vậy việc phòng ngừa là giải pháp quan trọng nhất. Trong đó, việc sử dụng chế phẩm sinh học đã chứng minh được hiệu quả trong việc hạn chế sự lây lan và nguyên nhân gây bệnh.

Tôm thẻ chân trắng
• 10:36 20/12/2024

Tại sao cần tạo màu nước trước khi thả tôm?

Tạo màu nước trong ao là một bước quan trọng giúp chuẩn bị môi trường sống tốt nhất cho tôm trước khi thả. Màu nước phù hợp không chỉ giúp duy trì các thông số môi trường ổn định mà còn hỗ trợ hệ sinh thái ao phát triển cân bằng, giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Tuy nhiên, không phải người nuôi nào cũng nắm rõ cách tạo màu nước hiệu quả và khoa học.

Tạo màu nước
• 10:24 20/12/2024

Đa dạng sinh học trong ao nuôi là gì?

Đa dạng sinh học trong nuôi tôm đề cập đến sự phong phú và cân bằng của các loài sinh vật sống trong ao, bao gồm tôm, cá, động thực vật phù du, vi sinh vật và các loài khác. Một hệ sinh thái ao có đa dạng sinh học cao sẽ có khả năng tự cân bằng, giảm thiểu các tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài và hỗ trợ sự phát triển của tôm nuôi.

Đa dạng sinh học
• 10:18 20/12/2024

Hiệu quả của mô hình nuôi cá hữu cơ hiện nay

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản đang đối mặt với nhiều thách thức, mô hình nuôi cá hữu cơ đang nổi lên như một hướng đi bền vững, mang lại nhiều hiệu quả to lớn cho người nuôi trồng và người tiêu dùng. Hãy cùng Tép Bạc tìm hiểu chi tiết về những lợi ích và đóng góp mà mô hình này mang lại.

Nuôi cá hữu cơ
• 11:00 19/12/2024

Sản xuất giống thủy sản nước ngọt đa loài và mô hình nuôi

Thực hiện chủ trương giảm khai thác, tăng nuôi trồng, việc nghiên cứu sản xuất giống đa loài với các mô hình nuôi có vai trò quan trọng và nhiều năm qua được chú trọng đã đạt thành tựu đáng ghi nhận. Sau đây xin giới thiệu kết quả ở Trường Thủy sản thuộc Trường Đại học Cần Thơ qua thống kê của PGS.TS Phạm Thanh Liêm.

Nuôi cá tra
• 18:55 20/12/2024

Vai trò của chế phẩm sinh học trong phòng ngừa EHP

Hiện nay, EHP chưa có thuốc điều trị hiệu quả, vì vậy việc phòng ngừa là giải pháp quan trọng nhất. Trong đó, việc sử dụng chế phẩm sinh học đã chứng minh được hiệu quả trong việc hạn chế sự lây lan và nguyên nhân gây bệnh.

Tôm thẻ chân trắng
• 18:55 20/12/2024

Tại sao cần tạo màu nước trước khi thả tôm?

Tạo màu nước trong ao là một bước quan trọng giúp chuẩn bị môi trường sống tốt nhất cho tôm trước khi thả. Màu nước phù hợp không chỉ giúp duy trì các thông số môi trường ổn định mà còn hỗ trợ hệ sinh thái ao phát triển cân bằng, giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Tuy nhiên, không phải người nuôi nào cũng nắm rõ cách tạo màu nước hiệu quả và khoa học.

Tạo màu nước
• 18:55 20/12/2024

Đa dạng sinh học trong ao nuôi là gì?

Đa dạng sinh học trong nuôi tôm đề cập đến sự phong phú và cân bằng của các loài sinh vật sống trong ao, bao gồm tôm, cá, động thực vật phù du, vi sinh vật và các loài khác. Một hệ sinh thái ao có đa dạng sinh học cao sẽ có khả năng tự cân bằng, giảm thiểu các tác động tiêu cực từ môi trường bên ngoài và hỗ trợ sự phát triển của tôm nuôi.

Đa dạng sinh học
• 18:55 20/12/2024

Làm thế nào để xây dựng chuỗi giá trị thủy sản bền vững từ khâu sản xuất đến tiêu dùng?

Hiện nay, chuỗi giá trị thủy sản tại Việt Nam còn tồn tại nhiều vấn đề như thiếu liên kết giữa các khâu, công nghệ sản xuất chưa đồng bộ và giá trị gia tăng thấp. Vì vậy, việc xây dựng chuỗi giá trị bền vững từ sản xuất đến tiêu thụ là một nhiệm vụ quan trọng để nâng cao chất lượng sản phẩm và đảm bảo sự phát triển lâu dài của ngành thủy sản Việt Nam.

Nhá tôm
• 18:55 20/12/2024
Some text some message..