Yêu cầu về dinh dưỡng
Khi lựa chọn thức ăn và áp dụng vào hệ thống sản xuất, phải hiểu được việc chuyển hóa thức ăn thay đổi theo mật độ dinh dưỡng của khẩu phần và đầu vào thức ăn phải được điều chỉnh cho phù hợp. Nếu hàm lượng chất dinh dưỡng trong thức ăn cao hơn, chúng ta sẽ cung cấp ít thức ăn hơn.
Ví dụ, một chế độ ăn cân bằng tốt chứa 40% protein và được cho ăn ở mức 75% khẩu phần sẽ cung cấp lượng protein tương tự như chế độ ăn chứa 30% protein được cung cấp ở khẩu phần 100%. Nếu chế độ ăn ít protein đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi trong một số điều kiện nhất định thì việc nâng cao hàm lượng protein bằng cách tăng khẩu phần ăn hàng ngày không dẫn đến tăng trưởng tốt hơn mà còn làm tăng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn và tải lượng ô nhiễm gây bất lợi cho ao nuôi. Do đó, việc hiểu và kiểm soát lượng thức ăn đầu vào thích hợp là rất quan trọng.
Thực hiện nghiên cứu
Một ví dụ về khái niệm này được đưa ra từ kết quả của một thí nghiệm mà các chuyên gia đã thực hiện gần đây tại Alabama, Mỹ. Cho thấy trọng lượng cuối cùng của tôm được nuôi trong bể ngoài trời và được cung cấp chế độ ăn 30 - 40% protein ở mức khẩu phần 75 và 100%.
Tôm được nuôi với khẩu phần 100% trên mỗi chế độ ăn 30% protein có trọng lượng tương tự như tôm được cho ăn khẩu phần 75% sử dụng chế độ ăn 40% protein với kết quả tương ứng là 10,33 và 10,28 gram. Hai nguồn thức ăn đầu vào này cung cấp cùng một lượng protein và do đó tạo ra mức tăng trưởng như nhau.
Trong nghiên cứu, hệ số chuyển đổi thức ăn là 1,41 đối với chế độ ăn 30% protein với khẩu phần 100% và 1,14 đối với tôm được cho ăn chế độ ăn 40% protein với khẩu phần 75%. Do đó, cho ăn hợp lý một chế độ ăn đậm đặc chất dinh dưỡng có thể tạo ra sự chuyển đổi thức ăn tốt hơn và có thể giảm chi phí sản xuất chung cũng như khả năng ô nhiễm nước.
Hiểu rõ về tỷ lệ chuyển đổi thức ăn
Bằng việc sử dụng những con số tổng quát, các chuyên gia có thể nhanh chóng ước tính khả năng chuyển đổi thức ăn của một loại thức ăn nhất định bằng cách đưa ra một số giả định về khả năng lưu giữ chất dinh dưỡng của sản phẩm đó.
Giả sử tôm chứa 15% protein và trong thức ăn thông thường, 30% protein trong chế độ ăn được giữ lại dưới dạng mô mới chứa khoảng 15% protein. Nếu cho ăn 100 kg chế độ ăn 30% protein, tôm tiêu thụ 30 kg protein (100 kg x 0,30), nhưng giữ lại 9 kg (30 kg protein x 0,30 giữ lại). Điều này sẽ giúp tôm tăng trưởng 60 kg (tăng 9 kg protein: 0,15 protein ở tôm). Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn sẽ là 100:60 (1,7:1) đối với khẩu phần 30% protein, hoặc 100:80 (1,25:1) đối với khẩu phần 40% protein.
Trọng lượng của tôm thẻ chân trắng được nuôi trong bể với các chế độ ăn khác nhau. Ảnh: Tép Bạc
Tuy nhiên trên thực tế, các giá trị chuyển đổi thức ăn tại cơ sở nghiên cứu của các chuyên gia lại không được tốt như ví dụ kể trên. Các ao/bể nuôi thường được thả với mật độ 35 con tôm/m3. Tôm được cho ăn chế độ ăn 35% protein chất lượng cao hai lần một ngày và nồng độ oxy hòa tan được duy trì trên 2,5 ppm (sử dụng sục khí khoảng 10 hp trên mỗi ha bề mặt ao).
Trong những điều kiện này, giá trị chuyển đổi nguồn cấp dữ liệu thường cao hơn 2:1. Việc xem xét dữ liệu sản xuất hàng năm cũng như một số thí nghiệm theo kế hoạch đã chỉ ra rõ ràng rằng việc tăng lượng thức ăn đầu vào không cải thiện được sự tăng trưởng hoặc tỷ lệ sống. Nguồn thức ăn đầu vào thậm chí có thể bị ảnh hưởng do chất lượng nước và điều kiện đáy ao suy giảm. Cho rằng thức ăn là một trong những chi phí sản xuất chính và là nguồn gốc ban đầu của các vấn đề về chất lượng nước, nên các quy trình cho ăn đã được đánh giá lại.
Đánh giá lại chiến lược sử dụng thức ăn
Đầu tiên, các nhà nghiên cứu xem xét quá trình sản xuất trước đó nhằm đánh giá liệu các giả định về tốc độ tăng trưởng và khả năng sống sót có hợp lý hay không. Thứ hai, họ so sánh đầu vào thức ăn với nhu cầu thức ăn lý thuyết dựa trên mức tăng trọng và khả năng giữ lại protein (tương đối ngắn từ 2 - 4 tuần).
Tỷ lệ sống 60 - 70% và tăng trưởng 1,2 - 1,4 gram/tuần là tương đối ổn định và hợp lý trong điều kiện bán thâm canh. Đối với chế độ ăn 35% protein, kết quả thí nghiệm chỉ ra rằng tôm nặng 10 gram nên được cho ăn bằng 3,7% trọng lượng cơ thể.
Sử dụng các giả định trước đó, các chuyên gia sẽ cung cấp 2,6 gam thức ăn trong một tuần để tăng trọng 1,86 gam. Thật không may, mức tăng trưởng tốt nhất của tôm nuôi trong thử nghiệm của họ đạt được là khoảng 1,4 gam mỗi tuần nên chỉ cần 1,96 gam thức ăn, điều này dễ dần đến tình trạng lãng phí. Do đó, điều quan trọng là phải điều chỉnh tỷ lệ cho ăn phù hợp để đáp ứng nhu cầu thực tế của tôm.
Đánh giá và tiến hành điều chỉnh chiến lược cho ăn hợp lí. Ảnh: Tép Bạc
Nhu cầu thức ăn hàng ngày ước tính phụ thuộc vào việc xác định chính xác tốc độ tăng trưởng của tôm và mật độ nuôi. Ngay cả trong điều kiện tốt nhất, ước tính không chính xác và khó xác định. Do đó, người ta thường điều chỉnh việc phân bổ thức ăn hàng ngày cho một hệ thống nuôi nhất định dựa trên các yếu tố như tốc độ tăng trưởng thực tế hoặc trọng lượng hàng tuần, mức oxy hòa tan buổi sáng, nhiệt độ và lượng thức ăn còn lại trên khay thức ăn, cũng như hiệu suất trước đây của hệ thống nuôi.
Các chuyên gia hướng đến mục tiêu tỷ lệ chuyển đổi thức ăn là 1,2 gram với chế độ ăn 35% protein, tốc độ tăng trưởng 1,5 gram mỗi tuần và tỷ lệ sống 70% sau 16 tuần nuôi. Vì năng suất tự nhiên có thể đóng góp đáng kể vào lượng chất dinh dưỡng hấp thụ của L. vannamei nên những mục tiêu này khá hợp lý.
Bằng cách sử dụng thức ăn có chất lượng cao và điều chỉnh, quản lý chiến lược cho ăn và ứng dụng các uy trình quản lý thức ăn phù hợp với tỷ lệ tăng trưởng và tỷ lệ sống ở từng địa điểm cụ thể, nhiều nhà sản xuất thương mại có thể cải thiện việc sử dụng thức ăn tại cơ sở của họ. Tuy nhiên, họ phải phá vỡ suy nghĩ rằng càng dùng nhiều thức ăn thì càng tốt và nên xác định các giới hạn thực tế cho lượng thức ăn đầu vào.