Tác động của biến đổi khí hậu đến nuôi trồng thuỷ sản ven biển

Theo báo cáo của Tổng cục Thuỷ sản, trong 10 năm qua (2001-2011), sản lượng nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) đã tăng 4 lần - từ hơn 700 nghìn tấn lên khoảng 3 triệu tấn, với tốc độ tăng bình quân 15,7%/năm. Trong đó, sản lượng NTTS ven biển (mặn, lợ) chiếm gần 30%. Tuy nhiên, hoạt động này thường xuyên chịu tác động của thời tiết và thiên tai do biến đổi khí hậu (BĐKH) gây ra, các biểu hiện như nước biển dâng, nhiệt độ tăng, bão lũ, sóng lớn, triều cường và các hiện tượng thời tiết cực đoan khác. Những yếu tố này có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên NTTS (ở dạng đơn lẻ hay kết hợp) gây nhiều thiệt hại về kinh tế, xã hội cho cộng đồng người nuôi.

nuôi thủy sản ven biển
Ảnh minh họa

Nuôi trồng thủy sản ven biển

Tại Việt Nam, rất nhiều mô hình NTTS ven biển đã được phát triển cho từng nhóm đối tượng có đặc tính phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của từng vùng. Toàn quốc có 6 vùng nuôi chính: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL. Trong đó, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung là vùng trọng điểm phát triển NTTS ven biển. Đây cũng là một trong ba vùng sản xuất giống phục vụ NTTS cả nước (cùng với Đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL).

Về đối tượng NTTS ven biển, có 4 nhóm chính là: giáp xác, nhuyễn thể, cá biển và thực vật thủy sinh. Nhóm giáp xác chủ yếu là tôm, cua; Nhóm nhuyễn thể chủ yếu là ngao, hàu, tu hài, ốc hương; Nhóm cá biển và cá nước lợ có cá giò, cá mú, cá vược, cá bớp, rô phi; Nhóm thực vật thủy sinh chủ yếu là rong câu, rong mơ và rong sụn... Cho đến nay, tôm nước lợ vẫn là đối tượng nuôi chủ lực trong lĩnh vực NTTS ven biển và tiếp tục là đối tượng nuôi chủ lực của ngành theo Chiến lược phát triển ngành thủy sản đến năm 2020, tầm nhìn 2030.

Tổng diện tích mặt nước mặn, lợ Việt Nam có thể khai thác là 1,44 triệu ha, nhưng hiện mới khai thác được một nửa - 0,7 triệu ha. Trong đó, diện tích nuôi tôm chiếm 88,5% với hai đối tượng chính là tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Tại các tỉnh ven biển, tôm sú được nuôi theo các mô hình quảng canh, bán thâm canh và thâm canh tại các vùng hạ triều, trung triều và cao triều. Ngoài ra, tôm sú còn được nuôi xen rừng ngập mặn, nuôi luân canh (tôm-rong câu) hay nuôi xen tôm-lúa, kết hợp tôm cua ghẹ, cá nước lợ… Riêng tôm thẻ chân trắng, mặc dù mới được nuôi rộng rãi khoảng 5 năm lại đây nhưng đã trở thành một trong những đối tượng chủ lực có thể thay thế tôm sú bản địa ở nhiều vùng ven biển (có dấu hiệu suy giảm chất lượng môi trường). Hình thức nuôi chủ yếu là nuôi thâm canh hoặc nuôi ở quy mô công nghiệp trên các vùng cao triều - nơi có thể quản lí được các yếu tố môi trường.

Tác động của BĐKH

Trong các hoạt động NTTS ven biển thì nuôi tôm nước lợ chịu nhiều bất lợi do BĐKH gây ra. Ngược lại, một số hình thức nuôi tôm cũng đã và đang làm tăng phát thải khí nhà kính (như: nuôi bán thâm canh, thâm canh, hoặc nuôi ở quy mô công nghiệp). Những hình thức nuôi có khả năng làm giảm phát thải khí nhà kính, như: nuôi tôm cua xen rừng ngập mặn, nuôi tôm xen rong câu, nuôi kết hợp cá nước lợ, cua ghẹ, nuôi luân canh tôm - rong câu... Như vậy, để thích ứng với BĐKH, cần xác định các tác động của BĐKH và tình trạng thực tế, từ đó xây dựng giải pháp đặc thù cho từng mô hình nuôi nhằm dần dần thích ứng với những điều kiện bất lợi do BĐKH gây ra.

Vùng duyên hải Bắc Trung Bộ do đặc thù địa hình và điều kiện tự nhiên, là vùng thường xuyên phải chịu tác động bất lợi của thời tiết và khí hậu, như hạn hán, bão, lũ lụt, gió Tây Nam khô nóng, nước biển dâng, đặc biệt là gia tăng nhiệt độ và thay đổi lượng mưa… gây ảnh hưởng đến NTTS trong vùng. Khu vực từ Hà Tĩnh đến Quảng Trị có nhiệt độ mùa hè tăng từ 1,4-1,8oC (giữa thế kỉ 21) lên 3,1-3,7oC (cuối thế kỉ 21). Mức tăng nhiệt độ này bắt đầu vượt ngưỡng chịu đựng của hệ sinh thái và gây ra nhiều tác động nghiêm trọng cho sự sinh trưởng của các đối tượng NTTS. Vào mùa mưa, lượng mưa tăng mạnh đã gây lũ lụt, nhưng đến mùa khô thì không có mưa, gây hạn hán. Mức nước biển khu vực Hòn Dấu - Đèo Ngang được dự đoán là dâng thêm 20-24cm (năm 2050) và 49-65cm (năm 2100). Lượng mưa thay đổi cũng làm thay đổi độ mặn và dòng chảy của các sông và cửa sông chính. Mặc dù vùng Bắc Trung Bộ có hệ thống đê ven biển nhưng vẫn bị ảnh hưởng về diện tích NTTS trong và ngoài đê (thu hẹp hoặc mở rộng). Chính vì vậy, hoạt động NTTS của khu vực Bắc Trung Bộ được dự báo là sẽ chịu nhiều tác động tiêu cực của BĐKH.

Các tác động bất lợi và tiêu cực này nếu không có biện pháp can thiệp, sẽ đe dọa các mục tiêu tăng trưởng bền vững của ngành thủy sản. Một số nghiên cứu đã cho thấy, BĐKH có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến NTTS thông qua nguồn nước, diện tích nuôi, môi trường nuôi, con giống, dịch bệnh… và qua đó gây ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng và cơ sở hạ tầng của các vùng NTTS nói chung và NTTS ven biển nói riêng. Các hiện tượng thời tiết bất thường như bão lũ, hạn hán, nắng nóng hoặc giá rét kéo dài có thể tác động tiêu cực đến nguồn nước và sức đề kháng của các đối tượng nuôi, gây bùng phát dịch bệnh.

Công tác dự báo tác động của BĐKH

Việc dự báo các tác động tiềm tàng này là hết sức cần thiết. Vì qua đó, sẽ đánh giá được tính khả thi của các định hướng phát triển ngành, xây dựng được các giải pháp và hoạt động thích ứng cũng như làm cơ sở để xây dựng các mô hình thử nghiệm hiệu quả. Tuy nhiên, hiện chưa có đánh giá đầy đủ về tác động tiềm tàng của BĐKH lên diện tích, năng suất, sản lượng và cơ sở hạ tầng trong NTTS; mới chỉ có một số nghiên cứu tác động của BĐKH đối với NTTS ven biển (được thực hiện tại ĐBSCL, chưa có nghiên cứu tại khu vực duyên hải Bắc Trung Bộ). Nghiên cứu của Kam và các cộng sự (2010) ở ĐBSCL cho thấy, nếu không có giải pháp thích ứng BĐKH, thu nhập của các hộ nuôi cá tra có thể giảm 3 tỷ đồng/ha vào năm 2020 và các hộ nuôi tôm có thể giảm 130 triệu đồng/ha vào năm 2020 và giảm 950 triệu đồng/ha vào năm 2050.

Trong nuôi tôm, chi phí thích ứng BĐKH được dự đoán có thể tăng cao, do sự gia tăng chi phí bơm/tháo nước tại các đầm nuôi. Chi phí này chiếm khoảng 2,4% tổng chi phí/năm (giai đoạn 2010-2050). Đây là nghiên cứu đánh giá ở khía cạnh kinh tế của BĐKH ở quy mô cấp gia đình, chưa đánh giá tác động của BĐKH lên diện tích, năng suất, sản lượng và cơ sở hạ tầng tại các vùng NTTS, đặc biệt là vùng NTTS nước lợ, cũng như chưa đánh giá tác động đến năng suất và sản lượng của các đối tượng chủ lực.

Trong một nghiên cứu, thực hiện tại một xã ven biển Phước Thuận (Tuy Phước, Bình Định), kết quả là: 41% dân cư xã có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi BĐKH, trong đó 10% bị ảnh hưởng nặng do lũ lụt vào năm 2100 với thiệt hại hơn 7 tỷ đồng. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa đánh giá kĩ tác động ở lĩnh vực NTTS. Trong một nghiên cứu khác - tác động của BĐKH lên sản xuất nông nghiệp và thủy sản, nhóm tác giả xây dựng mô hình hồi quy mô tả sự tương quan giữa năng suất, sản lượng tôm nuôi trong giai đoạn 1995-2009 với các yếu tố tác động là nhiệt độ và lượng mưa, nhưng không loại trừ các yếu tố chính ảnh hưởng đến năng suất NTTS (như: chất lượng giống, kỹ thuật nuôi, ô nhiễm môi trường). Vì vậy, kết quả này cũng chưa đáng tin cậy.

Năm 2012, Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản đã thực hiện dự án "Điều tra, đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương với BĐKH làm cơ sở xây dựng các chính sách và hoạt động hỗ trợ hiệu quả cho các vùng chịu tác động của BĐKH". Qua đó, xác định vùng ven biển là vùng bị tổn thương cao và cộng đồng những người NTTS ven biển quy mô nhỏ là một trong những đối tượng nhạy cảm nhất với BĐKH cả về mặt kinh tế, xã hội và năng lực thích ứng. Tháng 1/2013, trong một công bố của Tổ chức DARA International về tính dễ bị tổn thương với BĐKH, Việt Nam được xếp ở mức báo động đỏ, là nước đứng đầu danh sách về mức thiệt hại thủy sản do BĐKH. Theo đó, ngành thủy sản bị thiệt hại khoảng 1,5 tỷ USD năm 2010 và mức thiệt hại này sẽ tăng lên 25 tỷ USD vào năm 2030.

Nhìn chung, các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, các tác động của BĐKH lên NTTS nói chung và NTTS ven biển nói riêng có thể được giảm nhẹ thông qua các biện pháp thích ứng hiệu quả của người nuôi và các tổ chức cộng đồng. Cụ thể là quản lí trang trại hiệu quả, sử dụng hợp lí các nguồn thức ăn và năng lượng trong hoạt động nuôi, thực hiện chuyển dịch mùa vụ, né vụ theo lịch của các cơ quan quản lí ban hành để thích ứng với diễn biến bất lợi của thời tiết, giảm thiểu khí nhà kính từ hoạt động NTTS.

Một số nguyên nhân gây cản trở người nuôi tham gia hoạt động ứng phó BĐKH

Do thiếu thông tin dẫn đến hạn chế về nhận thức. Do điều kiện kinh tế khó khăn, cơ sở vật chất thấp… Để người NTTS thấy được lợi ích và trách nhiệm trong hoạt động ứng phó BĐKH, ngoài các hoạt động thông tin tuyên truyền, chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng cần phối hợp xây dựng một số mô hình NTTS ven biển để người nuôi có thể tiếp cận trực quan và tự điều chỉnh các hoạt động sản xuất sao cho phù hợp với điều kiện đặc thù của vùng nuôi và gia đình.

Đồng thời, cần phải có những đánh giá mang tính dự báo về tác động tiềm tàng của BĐKH lên hệ thống cơ sở hạ tầng, diện tích, năng suất, sản lượng NTTS ven biển. Các mô hình thử nghiệm sẽ kiểm chứng tính hiệu quả của các giải pháp thích ứng và giảm nhẹ BĐKH tại các hệ thống NTTS ven biển. Từ đó, nhân rộng trong thực tiễn. Về phía người nuôi, sẽ chuyển từ nhận thức sang hành động - thực hành, học hỏi những biện pháp kỹ thuật cụ thể trong quá trình sản xuất và quản lí trang trại giúp giảm thiểu khí nhà kính, thích ứng tốt với BĐKH, phát triển NTTS ven biển bền vững.

Theo VIFEP/Tổng cục thủy sản, 15/01/2014
Đăng ngày 16/01/2014
Ngọc Thúy
Nuôi trồng

Thừa Thiên - Huế: Đầm phá ô nhiễm, dân kêu trời

Hàng ngàn hộ dân ở 33 xã, phường, thị trấn sống dựa vào đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (tỉnh Thừa Thiên - Huế), đang khốn khổ vì nguồn nước ô nhiễm nghiêm trọng.

Ô nhiễm đầm phá ở Thừa Thiên - Huế
• 14:32 14/03/2023

Yên Bái: Thả hơn 30 nghìn cá giống xuống hồ Thác Bà trong ngày ông Công, ông Táo

Ngày 14/1, huyện Yên Bình (Yên Bái) đã tổ chức thả cá bổ sung nguồn lợi thủy sản hồ Thác Bà năm 2023 gắn với phong tục thả cá chép ngày 23 tháng Chạp.

Thả cá
• 12:02 19/01/2023

Xuất hiện pin làm từ vỏ cua, có thể tái chế 1000 lần

Các nhà khoa học đã phát minh ra một loại pin được làm từ vỏ cua, dễ phân hủy hơn nhiều so với pin lithium-ion.

Pin làm từ vỏ cua
• 09:46 12/01/2023

Túi đựng rác thải nhựa chuyên dùng trên tàu cá

Tiến sỹ Trần Văn Vinh (SN 1968, quê xã Mỹ Thọ, huyện Phù Mỹ, Bình Định), chuyên ngành Quản lý và khai thác thủy sản, hiện là Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản (Sở Nông nghiệp và PTNT Bình Định).

Tàu cá
• 09:46 11/01/2023

Mưa đầu mùa - Nỗi lo của người dân nuôi tôm

Trong những ngày đầu mùa mưa, dòng mưa này không chỉ là niềm vui và cảm hứng cho mọi người mà còn là một thách thức đối với những người nuôi tôm trên ao. Mỗi giọt mưa cũng là một lời nhắc nhở về sự cần thiết của việc quản lý và ứng phó với những tác động của thời tiết đối với nguồn lợi thủy sản quý báu này.

Ao nuôi tôm
• 09:40 13/05/2024

Một số cách sửa chữa và vệ sinh cho ao lót bạt hiệu quả

Việc sửa chữa và vệ sinh cho bạt lót ao hồ tôm đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đáy hồ khỏi những tác động có hại từ môi trường xung quanh, duy trì chất lượng nước và chất lượng bạt trong ao tôm. Tuy nhiên, để thực hiện điều này một cách hiệu quả, thì bà con cần phải có sự hiểu biết về các loại bạt cũng như các kỹ thuật sửa chữa, vệ sinh cho bạt.

Ao lót bạt
• 09:43 10/05/2024

Cách thức tôm hấp thụ Canxi và Magie

Khi nuôi tôm trong điều kiện nước biển sẽ tôm phát triển rất tốt, nếu nuôi trong điều kiện nước lợ độ mặn thấp người nuôi phải bổ sung Ca, Mg trong môi trường nước làm sao đạt được tỷ lệ tối ưu tỷ lệ Canxi và Magie phù hợp nhất cho tôm phát triển.

Tôm thẻ
• 09:57 09/05/2024

Vệ sinh các thiết bị nuôi tránh gây lây nhiễm ở vụ sau

Ngoài việc thực hiện tốt các quy trình kỹ thuật chuẩn bị, phòng ngừa dịch bệnh, vệ sinh và cải tạo kỹ ao cũ để đảm bảo chất bẩn, vi khuẩn có hại, dịch bệnh được xử lý triệt để cho ao tôm trước khi bắt đầu vụ mới. Thì bà con cũng cần quan tâm và đảm bảo vệ sinh đầy đủ các thiết bị cần thiết để hỗ trợ quá trình sinh trưởng và phát triển của tôm. Vậy, làm thế nào để vệ sinh các thiết bị tránh gây lây nhiễm ở vụ sao đúng cách và an toàn. Cùng Tép Bạc tìm hiểu qua bài viết này nhé.

Thiết bị ao nuôi tôm
• 08:00 08/05/2024

Cơ hội và tiềm năng phục hồi cho thủy sản Việt Nam

Trong bối cảnh đầy thách thức của thị trường thế giới, ngành thuỷ sản Việt Nam đang đối diện với những cơ hội và tiềm năng phục hồi đáng kể. Từ những thách thức về môi trường kinh doanh đến áp lực từ các yêu cầu xuất khẩu quốc tế, ngành này đang tìm kiếm những lối đi mới để phát triển một cách bền vững và hiệu quả.

Thu hoạch tôm
• 01:44 14/05/2024

Dự án Aqua Xanh nuôi tôm bền vững ở Cà Mau

Từ tháng 5/2024 đến tháng 7/2026, tại huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau, triển khai thí điểm dự án Aqua Xanh với mục tiêu góp phần giảm ô nhiễm nguồn nước để thực hành nuôi tôm bền vững và sau đó mở rộng ra vùng ĐBSCL.

Mô hình nuôi tôm
• 01:44 14/05/2024

Gặp gỡ, trao đổi với người dân về nuôi tôm thương phẩm ứng dụng công nghệ Semi-Biofloc

Ngày 10/5, tại xã Phước Sơn (Bình Định), Trung tâm Khuyến nông Bình Định tổ chức Chương trình gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với 70 hộ nuôi tôm trên địa bàn các xã Phước Sơn, Phước Thuận và Phước Hòa về kỹ thuật nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng ứng dụng công nghệ Semi-Biofloc.

Cơ quan chuyển môn
• 01:44 14/05/2024

Mưa đầu mùa - Nỗi lo của người dân nuôi tôm

Trong những ngày đầu mùa mưa, dòng mưa này không chỉ là niềm vui và cảm hứng cho mọi người mà còn là một thách thức đối với những người nuôi tôm trên ao. Mỗi giọt mưa cũng là một lời nhắc nhở về sự cần thiết của việc quản lý và ứng phó với những tác động của thời tiết đối với nguồn lợi thủy sản quý báu này.

Ao nuôi tôm
• 01:44 14/05/2024

Cá chết trên hồ sinh thái Bàu Sen (Quy Nhơn) do thiếu oxy

Mới đây, Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Bình Định thông tin nguyên nhân của tình trạng cá chết nổi trắng ở hồ sinh thái Bàu Sen, thành phố Quy Nhơn do nguồn nước tại hồ có nồng độ oxy hòa tan quá thấp.

Cá
• 01:44 14/05/2024