Thông tin sơ bộ kết quả điều tra hiện trạng nguồn lợi hải sản tầng đáy ở biển Việt Nam

Trong khuôn khổ Dự án "Điều tra tổng thể hiện trạng và biến động nguồn lợi hải sản biển Việt Nam" trong các năm 2011-2015 thuộc Đề án 47. Ngày 10/9/2013, tại Tổng cục Thủy sản, nhóm nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Hải sản đã báo cáo "Kết quả sơ bộ các chuyến điều tra nguồn lợi hải sản tầng đáy ở biển Việt Nam 2012-2013".

Hội nghị

Theo báo cáo tại cuộc họp, hiện nay, tại Việt Nam, công tác điều tra nguồn lợi hải sản nói chung và nguồn lợi hải sản tầng đáy nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn: Do thiếu kinh phí nên gần 10 năm qua công tác điều tra đã không được triển khai liên tục và đồng bộ (việc điều tra bị gián đoạn từ năm 2005). Bên cạnh đó còn có những tồn tại, hạn chế về giải pháp thực hiện dẫn tới số liệu thiếu, không mang tính cập nhật, chưa đảm bảo tính chính xác…

Nguồn lợi hải sản tầng đáy thuộc biển Việt Nam chủ yếu là các loài cá đáy (mối, phèn, đù, lượng…), giáp xác (tôm, cua, ghẹ…), nhuyễn thể (mực, bạch tuộc…). phân bố rộng khắp các vùng biển Việt Nam. Tuy nhiên, trong phạm vi chương trình điều tra này, Viện đã lựa chọn 04 vùng biển để nghiên cứu, đó là: Vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ; và thiết kế hệ thống trạm điều tra tại những vùng biển có độ sâu dưới 200m. Nhóm đã sử dụng tàu kéo đáy đơn thương phẩm, vỏ gỗ, công suất 70CV trở lên. Lưới kéo đáy đơn được sử dụng trong các chuyến điều tra có chiều dài giềng phao 26,5m - chiều dài giềng chì 33,5m - mắt lưới ở đụt (2a) 30mm - ván lưới gỗ, bọc sắt - độ mở cao lưới 3,5m - độ mở ngang 14m. Đây là mẫu lưới tiêu chuẩn do Viện Nghiên cứu Hải sản thiết kế và giám sát thi công nhằm thực hiện các chuyến điều tra nguồn lợi hải sản tầng đáy ở biển Việt Nam trong các năm 2012-2013.

Trong quá trình điều tra, các tàu nghiên cứu đã tiến hành thu mẫu thành phần loài, thu mẫu sinh học và thu mẫu hải dương học, thuỷ sinh. Qua đó, đã tập hợp được một cơ sở dữ liệu điều tra để tiến hành phân tích, đánh giá, tổng hợp và đi đến kết luận sơ bộ về nguồn lợi hải sản ở biển Việt Nam. Có 04 tiêu chí mà nhóm đề tài đã tập trung bám sát, khai thác số liệu để tiến hành phân tích, là: Thành phần loài; Năng suất khai thác; Mật độ nguồn lợi và Trữ lượng nguồn lợi. Theo đánh giá sơ bộ, trong mùa gió Tây Nam, số họ bắt gặp trong các chuyến điều tra là 151 họ (trong đó, vùng Tây Nam Bộ chiếm 77 họ, Đông Nam Bộ 128, Trung Bộ 115 và Vịnh Bắc Bộ 85). Trong mùa gió Đông Bắc, số họ bắt gặp trong các chuyến điều tra là 156 họ (trong đó, vùng Tây Nam Bộ 82, Đông Nam Bộ 132, Trung Bộ 115 và Vịnh Bắc Bộ 94).

Về thành phần loài, trong mùa gió Tây Nam, điều tra toàn vùng biển Việt Nam, bắt gặp 32 loài nhuyễn thể chân đầu, 44 loài giáp xác và 522 loài cá (trong đó, vùng Tây Nam Bộ: 19 loài nhuyễn thể chân đầu, 21 loài giáp xác và 176 loài cá; vùng Đông Nam Bộ: 24 loài nhuyễn thể chân đầu, 26 loài giáp xác và 362 loài cá; vùng Trung Bộ: 19 loài nhuyễn thể chân đầu, 26 loài giáp xác và 273 loài cá; vùng Vịnh Bắc Bộ: 23 loài nhuyễn thể chân đầu, 22 loài giáp xác và 230 loài cá). Trong mùa gió Đông Bắc, điều tra toàn vùng biển Việt Nam, bắt gặp 35 loài nhuyễn thể chân đầu, 52 loài giáp xác và 598 loài cá (trong đó, vùng Tây Nam Bộ: 17 loài nhuyễn thể chân đầu, 38 loài giáp xác và 179 loài cá; vùng Đông Nam Bộ: 25 loài nhuyễn thể chân đầu, 35 loài giáp xác và 406 loài cá; vùng Trung Bộ: 17 loài nhuyễn thể chân đầu, 30 loài giáp xác và 310 loài cá; vùng Vịnh Bắc Bộ: 20 loài nhuyễn thể chân đầu, 27 loài giáp xác và 241 loài cá). Tổng hợp thành phần loài của tất cả các chuyến điều tra: đã bắt gặp 172 họ, 814 loài (trong đó có 715 loài cá, 61 loài giáp xác và 38 loài nhuyễn thể chân đầu). Bước đầu nhận thấy, số lượng họ/giống/loài bắt gặp trong các chuyến điều tra tương đối phong phú; các họ chiếm ưu thế trên toàn vùng biển Việt Nam là họ cá Khế, cá Sơn phát sáng và cá Mối; mùa gió Đông Bắc thành phần loài phong phú hơn mùa gió Tây Nam; vùng biển Đông Nam Bộ có thành phần loài phong phú hơn cả.

Về năng suất khai thác, năng suất chung trên toàn vùng biển Việt Nam dao động trong khoảng 16-195 kg/h. Trong đó, tại Vịnh Bắc Bộ, năng suất dao động trong khoảng 37,1-175,8 kg/h; Trung Bộ 16,7-194,6 kg/h; Đông Nam Bộ 26,5-91,5 kg/h; và Tây Nam Bộ 35,2-58,8 kg/h. Như vậy, vùng biển Trung Bộ có biên độ dao động về năng suất khai thác lớn nhất. Vịnh Bắc Bộ đứng thứ hai về sự biến động năng suất trong các chuyến điều tra. Ngược lại, hai vùng biển Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ có  năng suất khai thác khá ổn định. Trong cả 04 vùng biển đã điều tra thì vùng biển Tây Nam Bộ dẫn đầu về sự ổn định trong năng suất khai thác ở cả hai mùa gió Đông Bắc và Tây Nam. Về phân bố nguồn lợi, ngư trường tập trung tại khu vực Bắc vịnh Bắc Bộ (thuộc vùng biển Quảng Ninh), khu vực Cát Bà -Ba Lạt, khu vực cửa vịnh Bắc Bộ (từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế), Cù Lao Chàm, Phú Yên, Phú Quý, Nam Côn Sơn, Nam Du-Hòn Khoai, Phú Quốc.

Về trữ lượng nguồn lợi, trong mùa gió Đông Bắc 2012-2013, điều tra toàn vùng biển Việt Nam bằng lưới kéo đáy: Trong 884 nghìn tấn hải sản các loại, nhuyễn thể chân đầu chiếm 7%, giáp xác chiếm 4%, cá nổi nhỏ 19% và cá đáy 70%. Tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ, trong 185 nghìn tấn hải sản, nhuyễn thể chân đầu chiếm 5%, giáp xác 3%, cá nổi nhỏ 32% và cá đáy 60%. Trong 408 nghìn tấn hải sản đánh bắt được tại vùng biển Trung Bộ, nhuyễn thể chân đầu chiếm 4%, giáp xác chiếm 5%, cá nổi nhỏ 19% và cá đáy 72%. Trong 203 nghìn tấn hải sản đánh bắt được tại vùng biển Đông Nam Bộ, nhuyễn thể chân đầu chiếm 12%, giáp xác chiếm 3%, cá nổi nhỏ 11% và cá đáy 74%. Trong 87 nghìn tấn hải sản đánh bắt được tại vùng biển Tây Nam Bộ, nhuyễn thể chân đầu chiếm 12%, giáp xác chiếm 8%, cá nổi nhỏ 12% và cá đáy 68%.

Trong mùa gió Tây Nam 2013, điều tra toàn vùng biển Việt Nam bằng lưới kéo đáy: Trong 913 nghìn tấn hải sản các loại, nhuyễn thể chân đầu chiếm 10%, giáp xác chiếm 4%, cá nổi nhỏ 10% và cá đáy 76%. Tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ, trong 116 nghìn tấn hải sản, nhuyễn thể chân đầu chiếm 7%, giáp xác 4%, cá nổi nhỏ 13% và cá đáy 76%. Trong 441 nghìn tấn hải sản đánh bắt được tại vùng biển Trung Bộ, nhuyễn thể chân đầu chiếm 8%, giáp xác chiếm 3%, cá nổi nhỏ 8% và cá đáy 81%. Trong 274 nghìn tấn hải sản đánh bắt được tại vùng biển Đông Nam Bộ, nhuyễn thể chân đầu chiếm 14%, giáp xác chiếm 3%, cá nổi nhỏ 8% và cá đáy 75%. Trong 81 nghìn tấn hải sản đánh bắt được tại vùng biển Tây Nam Bộ, nhuyễn thể chân đầu chiếm 14%, giáp xác chiếm 6%, cá nổi nhỏ 21% và cá đáy 59%.

Để có được kết quả này, tập thể cán bộ nghiên cứu thuộc viện Nghiên cứu Hải sản, các cơ quan quản lý đã nỗ lực để thực hiện dự án trong điều kiện không có tàu nghiên cứu chuyên dụng. Các con số được trình bày trong báo cáo đã thể hiện được sự dày công nghiên cứu của nhóm điều tra nguồn lợi hải sản tầng đáy. Nhóm nghiên cứu đã rất linh hoạt trong việc áp dụng các hình thức điều tra khác nhau tại từng vùng biển của Việt Nam. Việc lựa chọn độ sâu của vùng biển nghiên cứu cũng đã được nhóm tính toán chặt chẽ, đảm bảo tuân thủ những cam kết quốc tế, cũng như đảm bảo sự an toàn cho tất cả hệ thống điều tra. Những số liệu này thực sự có giá trị và rất đáng tin cậy phục vụ cho các cơ quan quản lý cũng như phục vụ cho sản xuất. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến của các đại biểu cho rằng: Đối với các số liệu vừa thu thập được, nên tiến hành so sánh, đối chiếu với các số liệu cũ (đã thu thập trước đây) để đưa ra cái nhìn tổng quát, phản ánh đúng thực chất hiện trạng nguồn lợi hải sản tại các vùng biển Việt Nam. Các đối tượng như cá tráp, cá bánh đường cũng là những loài hải sản tầng đáy điển hình ở biển Việt Nam, cần được điều tra nghiên cứu, nắm bắt diễn biến tăng/giảm trong các mùa gió.

Trong thời gian tới, Viện Nghiên cứu Hải sản sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu, tiến hành phân tích sâu và tích hợp số liệu để đưa ra nhiều kết quả tổng thể, làm nổi bật bức tranh về các đối tượng hải sản có giá trị kinh tế cao, phân loại cá thể đã trưởng thành và chưa trưởng thành (để theo dõi)…Với tiến trình thực hiện điều tra như hiện nay, số liệu thu thập được sẽ ngày càng đáng tin cậy, phục vụ tốt công tác tư vấn quản lý nghề cá của ngành thuỷ sản Việt Nam.

http://www.fistenet.gov.vn/
Đăng ngày 19/09/2013
Ngọc Thuý (FICen)
Đánh bắt

Áp dụng nhiều công nghệ mới để chống khai thác IUU

Sáng ngày 14/1/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà chủ trì hội nghị lần thứ 12 về chống khai thác IUU, chuẩn bị làm việc với Đoàn Thanh tra của Ủy ban Châu Âu lần thứ 5. Phó Thủ tướng chỉ đạo, áp dụng nhiều công nghệ mới để tăng cường quản lý đội tàu cá. Một số chuyên gia cho biết, Ấn Độ đã sử dụng máy bay không người lái để giám sát tàu cá, ngăn chặn khai thác IUU.

Tàu thuyền
• 10:53 24/01/2025

Nâng cao công tác quản lý tàu cá, đảm bảo an toàn cho người và tàu cá hoạt động thủy sản

Hiện nay công tác bảo đảm an toàn cho người và tàu cá hoạt động thủy sản đang tiếp tục đối mặt với một số khó khăn, thách thức như các hình thái thời tiết cực đoan trên biển đang ngày càng phức tạp, khó lường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.

Tàu cá
• 10:29 10/01/2025

Bình Định tăng cường lãnh đạo, xử lý các tồn tại, hạn chế trong công tác chống khai thác IUU

Thực hiện Văn bản số 567-CV/BCSĐ ngày 18/12/2024 của Ban cán sự Đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, có kết quả nhiệm vụ chống khai thác IUU, chuẩn bị làm việc với Đoàn Thanh tra của Ủy ban châu Âu lần thứ 5.

Tàu cá
• 09:43 07/01/2025

Gỡ khó trong cấp giấy xác nhận nguyên liệu thủy sản

Ngành thủy sản Việt Nam đang nỗ lực gỡ "thẻ vàng" IUU từ Ủy ban Châu Âu (EC), trong đó việc cấp giấy xác nhận (SC) và chứng nhận (CC) nguyên liệu thủy sản khai thác là nhiệm vụ trọng tâm. Tuy nhiên, nhiều bất cập trong triển khai đã gây khó khăn cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến xuất khẩu.

Thu hoạch cá
• 10:47 17/12/2024

Áp dụng nhiều công nghệ mới để chống khai thác IUU

Sáng ngày 14/1/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà chủ trì hội nghị lần thứ 12 về chống khai thác IUU, chuẩn bị làm việc với Đoàn Thanh tra của Ủy ban Châu Âu lần thứ 5. Phó Thủ tướng chỉ đạo, áp dụng nhiều công nghệ mới để tăng cường quản lý đội tàu cá. Một số chuyên gia cho biết, Ấn Độ đã sử dụng máy bay không người lái để giám sát tàu cá, ngăn chặn khai thác IUU.

Tàu thuyền
• 05:56 27/01/2025

Tổng quan và phân tích thị trường giá cá lóc hiện nay

Cá lóc là một trong những loài cá được yêu thích nhất tại Việt Nam nhờ hương vị đậm đà, dễ chế biến, và giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, giá cá lóc thay đổi đáng kể tùy theo loại, khu vực, và nhiều yếu tố khác

Cá lóc
• 05:56 27/01/2025

Tái chế nước thải trong ao nuôi để bảo vệ môi trường

Trong bối cảnh ngành nuôi trồng thủy sản ngày càng phát triển, vấn đề xử lý nước thải trong ao nuôi đang trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu.

Ao nuôi tôm
• 05:56 27/01/2025

Không khí nhộn nhịp ở các cảng cá dịp tết Nguyên Đán

Vào những ngày cận kề Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025, không khí tại các cảng cá, đặc biệt là cảng cá Thọ Quang (Sơn Trà, TP Đà Nẵng), trở nên nhộn nhịp và sôi động hơn bao giờ hết. Đây là thời điểm các ngư dân miền Trung và các tiểu thương bận rộn với công việc đánh bắt và tiêu thụ hải sản phục vụ nhu cầu của người dân trong dịp Tết.

Chợ hải sản
• 05:56 27/01/2025

Xuất khẩu thủy sản Việt Nam giữ đà tăng trưởng trong năm 2025

Năm 2025 hứa hẹn là một năm đầy triển vọng đối với ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Với nền tảng vững chắc từ các năm trước và những chiến lược phát triển phù hợp, ngành thủy sản không chỉ duy trì mà còn đẩy mạnh đà tăng trưởng, tạo ra cơ hội lớn cho nền kinh tế quốc gia.

Xuất khẩu thủy sản
• 05:56 27/01/2025
Some text some message..