Tiềm năng, cơ hội và thách thức với ngành chế biến phế phụ phẩm tôm, cá tra

Sau loạt bài Tép Bạc phản ánh hiện trạng chế biến phế phụ phẩm tôm và cá tra theo kết quả một cuộc điều tra công bố đầu năm 2024, sau đây xin tiếp tục thông tin đến bạn đọc tiềm năng, cơ hội và thách thức của lĩnh vực đang rất cần phát triển này.

Cá tra
Năm 2030 sản lượng cá tra 2.000.000 tấn và phế phụ phẩm cá tra là 1.300.000 tấn

Tiềm năng

Theo các đề án phát triển đã được phê duyệt, đến năm 2030, sản lượng tôm nước lợ 1.300.000 tấn và sản lượng cá tra 2.000.000 tấn. Khi đó, sản lượng phế phụ phẩm tôm nước lợ là 650.000 tấn (50% của tổng sản lượng tôm) gồm đầu và vỏ tôm, với giá bán trung bình hiện nay 3 - 4 triệu đồng/tấn thì giá trị là 1.950 - 2.600 tỷ đồng, tương đương 78 - 104 triệu USD. Sản lượng phế phụ phẩm cá tra 1.300.000 tấn (65% của tổng sản lượng cá tra), với giá trung bình hiện nay 8 - 10 triệu đồng/tấn thì giá trị là 10.400 - 13.000 tỷ đồng, tương đương 416 – 520 triệu USD.

Năm 2030, tiềm năng có thể sản xuất thực phẩm từ đầu tôm 490.000 tấn; Thịt vụn, dè và dạ dày cá tra 100.000 tấn; Mỡ cá tra 150.000 tấn. Tiềm năng có thể sản xuất thức ăn chăn nuôi từ vỏ tôm 146.000 tấn; Đầu xương và nội tạng cá 900.000 tấn/năm. Tiềm năng chế biến phục vụ các ngành y, dược, mỹ phẩm, công nghiệp khác từ đầu vỏ tôm 147.000 tấn; Da, bong bóng cá 80.000 tấn. Tiềm năng đầu tư chế biến sâu từ phế phụ phẩm là rất lớn. 

Đối với phế phụ phẩm tôm, một ký đầu tôm bán thô làm thức ăn gia súc giá chỉ khoảng 2.000 đồng; Dùng để sản xuất bột tôm, muối tôm, giá 100.000 đồng. Còn nghiên cứu ra chất chitosan dùng làm màng bọc thực phẩm, nhựa nhân tạo và nhiều lĩnh vực khác thì giá bán đến 400 - 500 USD/kg; sử dụng trong ngành y tế như băng y tế, tái tạo da nhân tạo thì giá lên tới 1.000 USD/kg. Hiện tại trên cả nước, đầu vỏ tôm chủ yếu chế biến khô dùng cho chăn nuôi với giá bán chỉ 30.000 – 40.000 đồng/kg. Cả nước mới có 1 – 2 cơ sở quy mô công nghiệp chế biến chitine và chitosan với công suất một năm vài trăm tấn sản phẩm. 

Còn rất nhiều sản phẩm để lựa chọn đầu tư phát triển, tạo ra giá trị cao hơn so với làm khô dùng cho chăn nuôi. Đó là, chế biến đầu tôm khô làm thực phẩm (bột đầu tôm, bột hương vị tôm…); Chế biến chitosan và chitin dùng cho các ngành y, dược, mỹ phẩm, ngành nông nghiệp và công nghiệp sợi; Chế biến phân bón hữu cơ cao cấp, dịch tôm thủy phân và các sản phẩm khác.

Với phế phụ phẩm cá tra, hiện nay trên 60% được sản xuất bột cá. Bình thường một ký phế phụ phẩm cá tra được 0,2 kg dầu cá thô và 0,3 kg bột cá có giá bản thấp, lợi nhuận khoảng 1.000 – 2.000 đồng/kg nguyên liệu. Nếu đầu tư cơ sở chế biến hiện đại có công nghệ tiên tiến để chế biến các sản phẩm cao cấp về y dược, mỹ phẩm, thực phẩm ăn liền (Giò chả, gelatin, collagen, dầu cá tinh chế,….) sẽ cho hiệu quả cao hơn nhiều lần. Đó là chế biến ra thực phẩm làm sẵn, ăn liền từ thịt vụn và da cá (giò, chả, snack,..); dầu cá tinh luyện cao cấp có hàm lượng omega 3 cao từ mỡ cá; Gelatin, collagen từ da cá dùng cho ngành y dược, mỹ phẩm, đồ uống, thực phẩm chức năng; Phân hữu cơ cao cấp và các sản phẩm khác.

Chế biến sản phẩm cao cấp thì thị trường tiêu thụ mở rộng. Với thị trường nội địa, hầu hết các sản phẩm chế biến từ phế phụ phẩm tôm và cá tra đều được tiêu thụ vì có hàm lượng protein cao để làm ra các sản phẩm cung cấp cho nhiều lĩnh vực khác nhau; góp phần thay thế hàng nhập khẩu hiện nay. Về thị trường xuất khẩu, là một trong những nước dẫn đầu thế giới về cá tra và tôm nước lợ nên Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh.

Tôm thẻMục tiêu đến năm 2030, sản lượng tôm nước lợ 1.300.000 tấn và trong chế biến sẽ có 650.000 tấn phế phụ phẩm là đầu, vỏ tôm 

Trước đây dầu cá tra xuất đi Campuchia, Trung Quốc, Đài Loan dưới dạng thô với giá bán thấp; nếu chế biến ra các sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế như colagen, gelatin, chitine và chitosan, dầu cá tinh chế cao cấp… sẽ có nhiều thị trường tiêu thụ, mang về nhiều ngoại tệ.

Cơ hội

Tôm nước lợ và cá tra là 2 mũi nhọn phát triển ngành thủy sản từ nay đến năm 2030, nên lĩnh vực chế biến phế phụ phẩm có nguồn nguyên liệu dồi dào và ổn định với sản lượng hàng triệu tấn. Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức khu vực và thế giới như ASEAN, APEC, WTO và đã ký 13 Hiệp định thương mại tự do với các nước. Nhu cầu thủy sản của thị trường thế giới đặc biệt lớn như Trung Quốc, Mỹ, EU và xu hướng ngày càng tăng.

Thị trường nội địa có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm từ chế biến phế phụ phẩm ngày càng tăng cả về số lượng và đòi hỏi cao về chất lượng. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, việc sử dụng các sản phẩm chế biến từ phế phụ phẩm dần được người tiêu dùng chấp nhận với hệ thống thương mại siêu thị phát triển.

Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến từ các nước phát triển, tranh thủ được vốn đầu tư nước ngoài và các nguồn lực quan trọng khác để đầu tư chế biến sâu, tinh phế phế phụ phẩm thủy sản thành sản phẩm cao cấp. Phát huy được những điểm mạnh về lợi thế so sánh của tôm nước lợ và cá tra. Tốc độ phát triển ngành hàng 3-5%/năm, đặc biệt ở những vùng trọng điểm như ĐBSCL, Đông Nam Bộ; có nhiều trang trại nuôi tôm và cá tra lớn.

Thực tế, trên 750 cơ sở quy mô công nghiệp có đủ năng lực chế biến các loại thủy sản khác nhau; nhiều doanh nghiệp đã đầu tư công nghệ tiên tiến chế biến sâu sản phẩm tôm và cá tra tạo giá trị gia tăng cao. Đã hình thành hệ thống phân phối, tiêu thụ phế phụ phẩm để tạo ra các sản phẩm phong phú. Lượng phế phụ phẩm có tiềm năng lớn và ngày càng tăng, việc tái chế sẽ nâng cao giá trị sản phẩm. Tái sử dụng phế phẩm còn giảm phát khí thải nhà kính, bảo vệ môi trường, góp phần hướng tới một nền kinh tế xanh và bền vững.

Thách thức

Ngành chế biến phế phục phẩm tôm và cá tra cũng đang đối diện nhiều thách thức. 

Trước triên là những điểm yếu của nội tại ngành. Ngoài khu vực ĐBSCL ra, còn các khu vực khác của đất nước thì quy mô sản xuất tôm, cá còn nhỏ lẻ, chưa thật sự hình thành một ngành theo hướng hiện đại. Cơ sở hạ tầng logistics phục vụ cho sản xuất, chế biến và phân phối lưu thông phế phụ phẩm tôm và cá tra còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, chi phí dịch vụ cao nên giá bán cao, hao hụt lớn, chất lượng giảm nhanh.

Cơ sở chế biến phế phụ phẩm phần lớn quy mô nhỏ và vừa, nguồn vốn hạn hẹp nên năng lực cạnh tranh thấp. Các nguồn lực khác (công nghệ, nhân lực, năng lực quản trị và hội nhập) còn kém đã hạn chế đến quá trình đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản phẩm, hiệu quả thấp. Thiếu chiến lược phát triển nên đầu tư còn dàn trải.

Phế phụ phẩm tôm và cá tra rất dễ hỏng do hàm lượng protein và mỡ cao cần chế biến trong thời gian ngắn. Khối lượng lại cồng kềnh, cần diện tích trữ lớn để thu gom. Hàm lượng nước cao gây khó khăn trong vận chuyển, bảo quản. Giá đầu ra của sản phẩm nhìn chung biến động lớn và không ổn định.

Còn có những thách thức về tư duy, quản lý và cạnh tranh. Nhận thức chung của cộng đồng (kể cả doanh nghiệp) chưa cao, phần đông vẫn xem phế phụ phẩm là thứ thải loại, có giá trị thấp nên chưa quan tâm đầu tư. Trong lúc, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm với mặt hàng phế phụ phẩm chế biến của thị trường ngày càng cao, khắt khe và phức tạp, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Khi thị trường mở rộng, các công ty của nước ngoài cũng sẽ có cơ hội thuận lợi thâm nhập thị trường trong nước, đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao năng lực cạnh tranh để đối phó với nguy cơ mất thị trường trên sân nhà.

Không thể không kể đến khó khăn về khách quan mà lớn nhất là biến đổi khí hậu. Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn của biến đổi khí hậu, đe dọa sản xuất thủy sản, ảnh hưởng lớn đến nguyên liệu phục vụ chế biến.

Những thách thức này kỳ vọng sẽ được hóa giải trong nỗ lực phát huy các cơ hội khai thác tiềm năng thế mạnh, đem lại lợi ích to lớn.

Đăng ngày 22/07/2024
Sáu Nghệ @sau-nghe
Góc nhìn

Thực trạng và hướng phát triển bền vững nuôi cá biển

PGS.TS Phạm Đức Hùng ở Viện Nuôi trồng Thủy sản thuộc Trường Đại học Nha Trang phân tích thực trạng nuôi cá biển hiện nay, từ con giống đến các đối tượng và hình thức nuôi còn nhiều hạn chế, từ đó đề xuất hướng phát triển bền vững.

Cá biển
• 11:15 18/10/2024

Doanh nghiệp thủy sản châu Âu chạy đua giao dịch trực tuyến

Thời điểm này, thuỷ sản nước ta đang có 2 đoàn từ châu Âu sang thanh tra về chống khai thác IUU trên biển và lĩnh vực nuôi thủy sản, đều nhằm minh bạch truy xuất nguồn gốc, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng đòi hỏi an toàn thực phẩm. Để có cái nhìn đầy đủ hơn, xin cung cấp thêm thông tin về mạng lưới thương mại thủy sản tại châu Âu với khoảng 140.000 doanh nghiệp đang chạy đua số hóa để rút ngắn chuỗi cung ứng từ trang trại đến bàn ăn. Bài viết theo Eurofish và chuyên gia Tuấn Minh.

Doanh nghiệp thủy sản
• 10:03 16/10/2024

EU thanh tra toàn diện lĩnh vực nuôi trồng thủy sản Việt Nam

Như thông tin đã đưa, từ ngày 24/9 đến 17/10/2024, Đoàn thanh tra của Liên minh châu Âu (EU) sang Việt Nam thanh tra toàn diện lĩnh vực nuôi thủy sản, từ việc kiểm soát dư lượng đối với các sản phẩm xuất sang thị trường EU đến độ tin cậy quá trình nuôi theo quy định. Kết quả thanh tra sẽ ảnh hưởng đến toàn ngành thủy sản và theo các chuyên gia, đây cũng là dịp soát xét để thúc đẩy kinh doanh nghiêm chỉnh.

Nuôi trồng thủy sản
• 11:41 14/10/2024

Xuất khẩu 9 tháng tăng 8,5% và tín hiệu sản phẩm chế biến

Tháng 9 gặp bão lụt lớn nhưng xuất khẩu thủy sản vẫn giữ được đà tăng trưởng để kim ngạch 9 tháng đầu năm 2024 tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, rõ thêm tín hiệu tốt từ sản phẩm chế biến.

Tôm thẻ
• 09:46 07/10/2024

Thực trạng và hướng phát triển bền vững nuôi cá biển

PGS.TS Phạm Đức Hùng ở Viện Nuôi trồng Thủy sản thuộc Trường Đại học Nha Trang phân tích thực trạng nuôi cá biển hiện nay, từ con giống đến các đối tượng và hình thức nuôi còn nhiều hạn chế, từ đó đề xuất hướng phát triển bền vững.

Cá biển
• 11:42 18/10/2024

Biết kháng sinh gây hại nhưng người nuôi vẫn bất chấp?

Việc người nuôi tôm hiện nay vẫn bất chấp sử dụng kháng sinh mặc dù biết rõ tác hại đã trở thành vấn đề nhức nhối. Kháng sinh, dù mang lại hiệu quả tạm thời trong việc điều trị bệnh, nhưng hệ quả lâu dài lại vô cùng tiêu cực. Không chỉ gây nguy hiểm đến sức khỏe con người, tôm nhiễm kháng sinh còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn ngành nuôi tôm, khiến giá trị kinh tế giảm sút và cản trở sự phát triển bền vững. Tại sao người nuôi lại biết rõ những rủi ro nhưng vẫn tiếp tục hành vi này?

Kháng sinh
• 11:42 18/10/2024

Nhìn bọt có thể đoán được môi trường ao nuôi đang tốt hay xấu hay không?

Nhìn vào hiện tượng bọt trong ao nuôi tôm có thể cung cấp một số thông tin hữu ích về tình trạng môi trường nước, từ đó giúp người nuôi đánh giá xem môi trường ao đang ở trạng thái tốt hay xấu. Tuy nhiên, việc đánh giá này cần phải dựa vào các quan sát kỹ lưỡng và kết hợp với các yếu tố khác, vì hiện tượng bọt có thể do nhiều nguyên nhân gây ra.

Bọt ao nuôi
• 11:42 18/10/2024

Thuật ngữ “chống bán phá giá” trong xuất khẩu tôm

Vào tháng 10 năm 2023, quan hệ xuất khẩu tôm giữa Indonesia và Hoa Kỳ đã trải qua căng thẳng do cáo buộc vi phạm chống bán phá giá do Hoa Kỳ đưa ra. Không chỉ Indonesia, cáo buộc này cũng ảnh hưởng đến các quốc gia khác như Ecuador, Việt Nam và Ấn Độ. Vậy, thuật ngữ chống bán phá giá trong xuất khẩu tôm chính xác là gì?

Tôm thẻ
• 11:42 18/10/2024

Nuôi thương phẩm cá điêu hồng trong lồng bè gắn liên kết tiêu thụ sản phẩm

Nhằm tận dụng tiềm năng dồi dào nguồn nước của các hồ chứa thủy lợi, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân.

Nuôi lồng bè
• 11:42 18/10/2024
Some text some message..