Bệnh xuất hiện lần đầu tiên tại các ao nuôi ở Nhật Bản vào năm 1971. Sau đó, bệnh được tìm thấy ở các loại cá sống ở cửa sông, đặc biệt là cá đối xám ở miền đông nước Úc vào năm 1972.
Bệnh đốm đỏ xảy ra ở đâu và khi nào?
Bệnh bùng nổ và lan rộng ở các nước Đông Nam Á, Tây Á, nơi có khí hậu nhiệt đới ẩm, thuận lợi cho các loài nấm phát triển. Bệnh loét ở cá mòi bùng phát ở Mỹ được xem xét là có các dấu hiệu gần giống như bệnh đốm đỏ ở Châu Á. Một khu vực rộng lớn có khoảng 50 loài cá được xác nhận bởi các chẩn đoán mô học bị ảnh hưởng bởi bệnh đốm đỏ. Nhưng vẫn có một số loài cá quan trong trong nuôi trồng được chứng minh là có khả năng chống chịu với bệnh đó là cá rô phi, cá sữa và cá chép Trung Quốc.
Bệnh đốm đỏ xảy ra chủ yếu trong giai đoạn nhiệt độ thấp và sau thời gian mưa lớn là những điều kiện thuận lợi cho việc hình thành bào tử của nấm Aphanimyces invadans. Nhiệt độ thấp đã được chứng minh là làm chậm quá trình viêm nhiễm ở cá bị nhiễm nấm.
Bệnh đốm đỏ được lây lan qua môi trường nước. Giai đoạn mà cá nhạy cảm nhất đối với bệnh đốm đỏ là khi cá chưa trưởng thành. Không có báo cáo nào cho thấy sự xuất hiện của bệnh đốm đỏ trong giai đoạn cá bột hoặc ấu trùng cá.
Chẩn đoán
Khi ao nuôi xuất hiện bệnh đốm đỏ, tỷ lệ mắc bệnh cao >50% và tỷ lệ tử vong cao >50% chủ yếu được quan sát thấy trong những năm có mùa lạnh kéo dài, nhiệt độ của nước từ 18 đến 22°C. Một số loài cá bị nhiễm nấm có thể phục hồi khi thời gian lạnh kéo dài.
Bệnh đốm đỏ có thể dễ dàng phát hiện bằng kỹ thuật mô trong các mẫu cá thu thập từ các khu vực nhiễm bệnh. Cá có những biểu hiện như đốm đỏ, vết loét đỏ trên thân mình.
<p center;\"="" style="text-align: center;"> Đốm đỏ xuất hiện dưới mang và đuôi
Đa số cá sẽ chết khi nhiễm bệnh. Tuy nhiên vẫn còn một số cá thể có thể phục hồi sau khi bị nhiễm bệnh và không có thông tin chỉ ra rằng cá có thể mang mầm bệnh suốt đời.
Kiểm soát
Việc kiểm soát bệnh đốm đỏ trong môi trường nước tự nhiên là không thể. Khi dịch bệnh xảy ra trong phạm vi nhỏ, cần kiểm soát nguồn nước, bón vôi để cải thiện chất lượng nước, kết hợp loại bỏ cá bị nhiễm bệnh để giảm tỷ lệ tử vong.