Địa y là loài xuất hiện trên trái đất từ hàng nghìn năm trước và có ở mọi nơi, chúng được hình thành từ 2 sinh vật cộng sinh là tế bào tảo và sợi nấm. Địa y có thể thích hợp và phát triển tốt dù ở các điều kiện môi trường khắc nghiệt, hạn hán, nhiễm mặn hay nghèo dinh dưỡng…
Trong một số nghiên cứu gần đây của A. B. Yildirim và các cộng sự đã cho thấy một vài loài nấm thuộc địa y như Anaptychia ciliaris, Bryoria capillaris, Cetraria Islandica, Evernia divaricata, Evernia prunastri, Letharia Vulpina và Usnea florida có khả năng chống lại các loại mầm bệnh nguy hiểm do vi khuẩn Aeromonas hydrophila, Aeromonas salmonicida, Enterococcus faecalis, Lactococcus garvieae, Streptococcus agalactiae, Yersinia ruckeri gây bệnh trên cá như xuất huyết, lở loét trên da cá, gây chết hàng loạt…
Phương pháp thí nghiệm
Mẫu địa y được lấy từ nhiều tỉnh khác nhau của Bolu, Thổ Nhĩ Kỳ sau đó được sấy khô và nghiền nhỏ thành bộ. Mỗi loại địa y sẽ được chiết xuất bằng ba dung môi khác nhau (acetone - AE, methanol – ME và nước - WE ) sau đó thí nghiệm và đánh giá bằng phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch.
Mẫu vi khuẩn được chọn cho thí nghiệm gồm: Gram (-) Aeromonas hydrophila, Aeromonas salmonicida và Yersinia ruckeri và Gram (+) gồm Enterococcus faecalis, Lactococcus garvieae và Streptococcus agalactiae.
Bốn mẫu kháng sinh đối chứng được chọn gồm: furazolidone (FURA, 100 μg), oxytetracycline (OXI, 30 μg), cephalothin (CE, 30 μg) và tri-methoprim / sulfamox gg (TRI 1.25/23.75 μg). DMSO và nước được dùng làm mẫu đối chứng âm.
Các đĩa được ủ ở 28° - 37 ° C sau đó tiến hành đo đường kính của vùng ức chế (mm), mỗi thí nghiệm được lặp lại ba lần.
Kết quả
Hoạt động của vi khuẩn tưới tác dụng của 39 mẫu chất chiết xuất địa y được đánh giá bằng đường kính trung bình của các vùng ức chế (mm ± SE). Với đường kính >18 mm là khả năng ức chế vi khuẩn mạnh, đường kính <12 mm là khả năng ức chế vi khuẩn yếu.
Bảng đo lường hoạt tính kháng khuẩn của 3 mẫu địa y
Qua các thí nghiệm hầu hết các chiết xuất địa y có hoạt tính chống lại 4 loài vi khuẩn, A. hydrophila, E. faecalis, L. garviae và S. agalactiae, nhưng không có chất nào chống lại Y. ruckeri và A. salmonicida. Bên cạnh đó các loài địa y E. divaricata, L. Vulpina, P. furfuracea, P. glauca không biểu hiện hoạt động ức chế chống lại bất kỳ mầm bệnh nào của cá.
Các chiết xuất acetone của địa y cho thấy hoạt động kháng khuẩn ảnh hưởng nhiều hơn so với chiết xuất methanol và nước. U. florida cũng đã cho kết quả kháng khuẩn cao hơn so với các mẫu chiếc xuất địa y khác.
Tuy kết quả khảo sát cho thấy khả năng ức chế vi khuẩn của kháng sinh cao nhưng đây không phải là loại thuốc có thể tùy tiện sử dụng. Vì nếu dùng quá liều dẫn đến tình trạng giảm hiệu lực kháng khuẩn, nếu bắt buộc dùng kháng sinh nên sử dụng đúng liều lượng, đúng hướng dẫn, tránh lạm dụng kháng sinh.
Kết luận
Một số bệnh nhiễm trùng máu, thối đuôi, thối vây, loét… trên cá thường do vi khuẩn A. hydrophila gây ra, chúng có sức đề kháng cao do có màng ngoài quanh thành tế bào và chứa lipopolysacarit (Turker et al., 2009).
Nhưng A. hydrophila nhạy cảm với các mẫu địa y, tất cả các mẫu địa y được thử nghiệm đều cho ra kết quả tích cực khi có khả năng ức chế A. salmonicid. Dựa trên các kết quả đã cho thấy địa y là loài có khả năng kháng khuẩn rất lớn với hoạt động phổ rộng.
Địa y hứa hẹn sẽ là chất kháng khuẩn tự nhiên, và tiềm năng trong phòng và trị các bệnh nguy hiểm trên cá.
Theo İsa Taş và cộng sự