Tôm ke (còi) là gì?
Tôm bị còi là hiện tượng tôm nuôi không phát triển bình thường, có kích thước nhỏ hơn so với các tôm cùng lứa, cùng độ tuổi. Tôm còi thường có các đặc điểm như:
- Kích thước nhỏ: Tôm còi có kích thước nhỏ hơn so với tôm phát triển bình thường trong cùng ao nuôi.
- Tốc độ tăng trưởng chậm: Khả năng phát triển của tôm còi không đạt được tốc độ như mong đợi, chúng thường phát triển rất chậm hoặc gần như không lớn lên.
- Thể trạng yếu: Tôm mắc bệnh này thường yếu ớt, dễ stress và nguy cơ mắc bệnh cao hơn so với tôm khỏe mạnh.
- Ngoại hình không đồng đều: Khi quan sát ao có tôm bị bệnh, người nuôi sẽ dễ nhận thấy sự khác biệt về hình dáng và kích thước không đồng đều của tôm còi so với tôm bình thường.
Nguyên nhân
Bệnh tôm còi xuất phát từ nguyên nhân chính là nhiễm Virus MBV (Monodon Baculovirus) và Virus HPV (Hepatopancreatic).
- MBV: Có dạng hình que, cấu trúc acid nhân đôi DNA. MBV ký sinh ở tế bào biểu mô hình ống của gan tụy và trước ruột giữa.
+ Khi tôm nhiễm bệnh do virus MBV ở giai đoạn đầu thường không có dấu hiệu rõ ràng, đến khi bệnh nặng tôm sẽ xuất hiện các dấu hiệu như: kém ăn, hoạt động yếu, chậm phát triển, lớp vỏ có màu tối hoặc xanh đậm, tỉ lệ phân đàn rất cao,… Khi bệnh tôm sẽ chết rải rác hoặc hàng loạt, thậm chí tỉ lệ chết lên đến 70%.
+ Có thể chẩn đoán tôm nhiễm bệnh bằng kỹ thuật nhuộm Malachite (phết tế bào gan tụy lên kính, nhuộm nhanh bằng Malachite green 0.1% rồi quan sát dưới kính hiển vi), Ngoài ra, có thể sử dụng phương pháp mô bệnh học hoặc kỹ thuật PCR.
Tôm nhiễm MBV có các triệu chứng như mất sức, tăng cân chậm, màu sắc thay đổi (mờ hoặc xanh xám). Ảnh: biofloc.vn
- HPV: Cấu trúc acid nhân chuỗi đơn DNA, HPV ký sinh ở gan tụy của tôm.
+ Thông thường, khi tôm bị nhiễm HPV sẽ bỏ ăn, bơi lờ đờ, hoạt động yếu, gan tụy tôm teo lại hoặc hoại tử,…Việc chẩn đoán tôm có mắc HPV dựa vào kỹ thuật nhuộm Giemsa hay Hematoxinlin và Eosin gan tụy.
Biểu hiện
- Tôm kém bắt mồi, bơi lội lờ đờ, dễ bị ký sinh hoặc rong bám.
- Tốc độ tăng trưởng chậm, lớn không đều
- Vỏ tôm có màu tối hoặc màu xanh đậm. Nếu bị nhiễm HPV gan tụy có thể bị nhão, teo hoặc hoại tử.
- Chết rải rác trong thời gian nuôi. Tỉ lệ chết tích lũy có thể lên đến 60 – 70%.
Xử lý
Đường lây nhiễm bệnh chính là từ nguồn giống, kế tiếp là chất lượng môi trường nước của ao, đầm nuôi tôm không đảm bảo. Vậy phải chọn giống khỏe, không nhiễm MBV và HPV, luôn vệ sinh ao đảm bảo chất lượng và chăm sóc quản lý tốt sức khỏe tôm.
Tôm bị nhiễm bệnh tôm còi sẽ lây lan đến tôm khoẻ nếu nuôi chung trong một ao. Lúc này, người nuôi cần tiến hành đặt chà trong ao để loại bỏ tôm bệnh. Dùng những bó chà nhỏ (rọ tre nhỏ bỏ cành cây lá khô vào) cắm quanh ao trong 1 -2 tháng đầu, tôm nhỏ, yếu sẽ bám vào chà, khi kiểm tra thì bỏ những tôm này ra khỏi ao.
Sau 2 tháng nuôi, cặn bả tập trung vào giữa ao và tôm nhỏ yếu thường tập trung vào vùng dơ bẩn này, nên rải thức ăn cho tôm từ trong ra ngoài theo hình xoắn ốc để kích thích tôm hướng ra ngoài.
Phòng bệnh
- Chọn tôm giống sạch bệnh, không bị nhiễm MBV và HPV.
- Chuẩn bị ao kỹ lưỡng, sên vét bùn đáy ao, diệt tạp, xử lý nước qua ao lắng trước khi cấp vào ao nuôi, đảm bảo nguồn nước sạch, màu nước phù hợp và ổn định trước khi thả giống.
- Diệt tạp triệt để, dùng lưới ngăn chặn vật trung gian mang mầm bệnh (như cua còng, chim nhỏ …) vào ao.
- Duy trì môi trường nước ao ổn định, cân bằng các yếu tố độ kiềm, ôxy hòa tan,...giúp tôm khỏe mạnh, không bị sốc trong suốt vụ nuôi.
- Có thể sử dụng thêm men vi sinh để phân hủy các chất mùn bã, hữu cơ tích tụ đáy áo, làm sạch nước ao tránh virus có hại phát triển mạnh gây hại cho tôm.
- Tăng đề kháng cho tôm bằng cách thêm vitamin C, men vi sinh vào khẩu phần ăn của tôm.