Trùn hổ đỏ có tên khoa học là Eisenia foetida, hay gọi là trùn ăn phân, tập tính ăn của chúng thường là trên bề mặt đất với tất cả các loại chất hữu cơ, xác và chất thải động vật. Chúng phân huỷ chất hữu cơ do đó nhóm trùn này thường cung cấp đạm và enzym rất cao. Đây là nhóm trùn dùng để làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy,hải sản… Bên cạnh đó, ngày nay ở các nước tiên tiến trên thế giới như: Canada, Mỹ, Úc, Nhật… Với hàm lượng chất dinh dưỡng cao, trùn hổ đỏ được xem như là một thức ăn tự nhiên khoái khẩu trong môi trường nước ngọt (ao, hồ, sông suối,..) đối với các loài cá, tôm và một số loài bọ nước. Có thể sử dụng trùn trong cả môi trường nước lợ.
Hiện nay, trùn chỉ, giun nhiều tơ, giun đất, trùn quế được xem là nguồn thức ăn quý giá trong ương nuôi các đối tượng thủy sản như tôm hùm, ba ba, tôm sú, tôm càng xanh,… có giá trị dinh dưỡng cao cùng các acid amin thiết yếu. Trong đó, bột trùn quế đã được nghiên cứu làm thức ăn bổ sung trong ương ấu trùng tôm sú, cho kết quả chất lượng tôm Post 15 tốt hơn thức ăn nhập ngoại (Phan Thị Bích Trâm và ctv., 2009). Bên cạnh đó, Nguyễn Văn Minh và ctv., (2010) khi phân lập vi sinh vật kiểm soát mầm bệnh trong trùn quế (Perionyx excavatus) nhận thấy: trong 13 chủng Bacillus sp. thì thấy 3 chủng Bacillus sp. đối kháng với vi khuẩn gây bệnh và kháng mạnh với nhóm Vibrio. Tuy nhiên, ứng dụng giun hổ đỏ vào nuôi trồng thủy sản còn hạn chế, nghiên cứu Rufchaei et al., 2019 được thực hiện để đánh giá lượng axit amin của chiết xuất trùn hổ đỏ (Eisenia foetida) và tác dụng của nó đối với các thông số miễn dịch và hiệu suất tăng trưởng của cá chép Caspian (Rutilus caspicus) trong một thí nghiệm cho ăn.
Cá chép Caspi ( Caspian roach – Rutilus caspicus) là loài cá nước ngọt, bơi theo đàn, sống ở thượng nguồn sông Volga, phân bố trải rộng khắp châu Âu, tây và bắc á. Đây là loài cá đặc sản không thể thiếu của người dân Nga được biết đến với món Vobla khô cá mặn từ cá chép Caspi. Cá có vị béo, nhiều dầu, thịt rất thơm và có vị ngọt tự nhiên nên ngày càng được ưa chuộng rộng rãi và trở thành mặt hàng xuất khẩu đến khắp nơi trên thế giới.
Nghiên cứu ứng dụng chiết xuất trùn hổ đỏ trên cá
Thí nghiệm bao gồm 3 nghiệm thức lặp lại 3 lần. Cá có khối lượng đầu là 4.30 ± 0,10 g bổ sung chiết xuất trùn hổ đỏ với nồng độ 0,1:25 và 1:50 (chiết xuất trùn pha loãng với nước cất).
Kết quả
Phân tích axit amin cho thấy Trùn hổ đỏ có hàm lượng dinh dưỡng rất cao chứa 16 axit amin (Aspartic acid, Glutamic acid, Serine, Histidine, Glycine, Threonine, Arginine, Tryptophan, Alanine, Tyrosine, Methionine, Valine, Phenylalanine, Isoleucine).
Sau 8 tuần cho ăn thức ăn có bổ sung dịch chiết trùn hổ đỏ cho thấy cá được cho ăn chiết xuất E. foetida cho thấy hoạt động Ig và lysozyme trong huyết thanh cao hơn đáng kể so với nghiệm thức đối chứng. Ngoài ra, bổ sung chế độ ăn với nồng độ pha loãng (1:25 V / V) đã làm tăng đáng kể ACH50 so với nhóm đối chứng.
Đối với hiệu suất tăng trưởng, kết quả cho thấy bổ sung dịch chiết trùn hổ đỏ cho thấy cải thiện tốc độ tăng trưởng, gia tăng lượng thức ăn vào và giảm hệ số FCR so với nhóm đối chứng ( P;0,05).
Trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt ở giai đoạn phát triển từ ấu trùng/cá bột lên cá giống, thức ăn tự nhiên là thành phần không thể thiếu được của rất nhiều loài cá, giáp xác và thân mềm nước ngọt và lợ, mặn. Ở giai đoạn này, ấu trùng/cá bột rất nhỏ (kích thước miệng nhỏ), chưa phát triển hoàn chỉnh các cơ quan cảm giác (như mắt, xúc giác, cơ quan đường bên) và hệ tiêu hóa chưa hoàn chỉnh là những yếu tố hạn chế việc chọn lựa và sử dụng thức ăn thích hợp trong suốt thời kỳ bắt đầu ăn thức ăn ngoài. Một số nhóm thức ăn tự nhiên được gây nuôi phổ biến như: vi tảo, luân trùng, moina và các loài giun (giun đất, giun nhiều tơ, trùn chỉ...).
Những phát hiện này cho thấy tác dụng tích cực của dịch chiết trùn hổ đỏ trong chế độ ăn của cá chép Caspian và ứng dụng trong ương nuôi cá. Nói chung, dịch chiết trùn hổ đỏ có thể được khuyến cáo như là chất miễn dịch cá ở giai đoạn đầu của quá trình nuôi cá.
The Science direct