Theo báo cáo thương mại thủy sản của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết nhu cầu tôm ở thị trường châu Á sẽ tăng trong thời gian tới.
Tại hội thảo “Nhu cầu tôm thế giới và khả năng cung cấp của Việt Nam” do VASEP tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh, dẫn chứng từ một báo cáo của Liên hợp quốc về triển vọng đô thị hóa thế giới đến năm 2025, ông Carson Blake Roper, chuyên gia thị trường EU, cho biết hầu hết các thành phố lớn có dân số đông đều tập trung ở khu vực châu Á.
Số lượng người dân thuộc tầng lớp trung lưu được dự đoán sẽ tăng mạnh ở khu vực này trong thời gian tới dẫn đến nhu cầu tiêu thụ về các sản phẩm có hàm lượng protein, nhất là tôm, cá... sẽ nhiều hơn. Trong đó, tốc độ tiêu thụ tôm ở các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc..đang có dấu hiệu gia tăng.
Theo số liệu thống kê từ Tổng Cục Hải quan, trong 7 tháng đầu năm 2017, kim ngạch xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đạt lần lượt 383,8 triệu USD, 295,7 triệu USD và 187,8 triệu USD, chiếm 19,92%, 15,35% và 9,75% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam. Như vậy, trong 7 tháng đầu năm 2017, kim ngạch xuất khẩu tôm sang Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc tăng khá mạnh, tăng lần lượt 40%, 35% và 27,4% so với cùng kỳ năm ngoái.
10 thị trường nhập khẩu tôm sú hàng đầu trong 7 tháng đầu năm 2017 (Số liệu: Tổng Cục Hải quan) Ảnh NDH
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp, diện tích nuôi và sản lượng tôm nước lợ 7 tháng đầu năm 2017 tiếp tục giữ xu hướng tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, diện tích nuôi tôm sú ước đạt 594,4 nghìn ha (tăng 2,4%), sản lượng đạt 135,3 nghìn tấn (tăng 13,2%). Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng ước đạt 66,9 nghìn ha, tăng 17,8% với sản lượng khoảng 145,5 nghìn tấn.
Ông Phạm Anh Tuấn, Nguyên phó Tổng Cục trưởng, Tổng cục Thủy Sản cho biết mục tiêu tăng trưởng sản lượng tôm nuôi giai đoạn 2017-2020 tăng 4,2%/năm đạt 4,6 triệu tấn vào năm 2020, phấn đấu đến năm 2025, kim ngạch xuất khẩu tôm đạt 10 tỷ USD. Điều này đồng nghĩa, giá trị xuất khẩu tôm cần phải đạt mức tăng trưởng 14%/năm (so với mức 7,2% giai đoạn 2010-2016).
Bên cạnh đó, năng suất và diện tích nuôi trồng cũng cần được mở rộng. Tốc độ tăng trưởng sản lượng nuôi tôm cần phải đạt 11-12%/năm (so với 5,3% giai đoạn 2010-2016). Cụ thể, đến năm 2020, tổng diện tích nuôi tông đạt 690.000 ha, sản lượng đạt 933.000 tấn, trong đó diện tích nuôi tôm sú ước đạt 600.000 ha với sản lượng 420 tấn. Diện tích tôm chân trắng đạt 90.000 ha, sản lượng đạt 513.000 tấn.
Mặc dù vậy, giá thành nuôi tôm được dự báo sẽ tăng do giá thức ăn lên cao và chi phí đáp ứng yêu cầu về môi trường, xã hội, truy xuất, an sinh vật nuôi của thị trường tăng. Ngoài ra tôm Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh thị trường tiêu thụ ngành càng khắc nghiệt hơn.
Ngành tôm sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro thách thức như chất lượng tôm giống phụ thuộc vào nhập khẩu và tự nhiên, khó kiểm soát, không ổn định trong khi giá thành dễ bị biến động, rủi ro dịch bệnh, giá thành nuôi tôm cao, sản xuất nhỏ lẻ...
Các chuyên gia ngành tôm cho rằng để đáp ứng nhu cầu thị trường ngành công nghiệp chế biến tôm Việt Nam cần phải xây dựng chiến lược cụ thể cho từng thị trường trong đó, đặc biệt quan tâm đến thị hiếu, thói quen ăn uống của người tiêu dùng để đưa ra chiến lược tiếp cận hiệu quả.
Ông Carson Blake Roper nhận định các doanh nghiệp cần xây dựng chuỗi cung ứng, hệ thống bảo quan lạnh khu vực châu Á nếu không tôm Việt khó lòng cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường thế giới. Ông Tuấn đưa ra một số kiến nghị như thay đổi quản lý nhập khẩu giống tôm, đánh giá nhà cung cấp, chất lượng di truyền, phát triển sản xuất tôm giống tại chỗ, nâng cao hạ tầng trại giống, vùng nuôi...