Ở Thái Lan, đây là loài cá biển được nuôi rộng rãi nhất với sản lượng trung bình hàng năm là 26.312 tấn (chiếm 86% tổng sản lượng cá biển) và tạo ra giá trị ước tính là 90 triệu đô la Mỹ hàng năm. Ngoài ra, chúng là loài quan trọng đối với cá nuôi lồng biển ở Malaysia và một số quốc gia Đông Nam Á. Tuy nhiên, dịch bệnh là một trong những trở ngại lớn đối với ngành nuôi cá chẽm. Việc thâm canh nuôi cá chẽm khiến loài cá này dễ mắc các bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn, vi-rút, ký sinh trùng và nấm gây ra.
Nuôi cá thâm canh đã làm tăng khả năng mắc bệnh nhiễm trùng do vi-rút của cá chẽm, do điều kiện căng thẳng, mật độ cao làm suy yếu hệ thống miễn dịch của chúng và tạo điều kiện cho mầm bệnh lây lan. Trong số các bệnh do vi-rút này, các loại vi-rút megalocytivirus, chẳng hạn như vi-rút gây hoại tử thận và truyền nhiễm (ISKNV), vi-rút iridovirus thân đỏ cá bơn (TRBIV), vi-rút iridovirus cá tráp biển đỏ (RSIV) và vi-rút gây bệnh rụng vảy (SDDV), được nêu bật là những tác nhân chính gây ra thiệt hại kinh tế và thách thức về năng suất trong ngành nuôi cá chẽm. SDDV là một loại virus DNA sợi đôi được phân loại là thành viên mới của chi Megalocytivirus, họ Iridoviridae. SDDV đã được báo cáo rộng rãi ở các nước Đông Nam Á là tác nhân gây ra hội chứng rụng vảy (SDS) ở cá mú, dẫn đến tỷ lệ tử vong cao trong cả trường hợp nhiễm trùng tự nhiên và thực nghiệm.
Hội chứng rụng vảy (SDS) với nguyên nhân nghi ngờ là do vi-rút lần đầu tiên được báo cáo ở cá vược châu Á nuôi ở Singapore vào năm 2012. Sau đó bệnh được ghi nhận ở Indonesia và Thái Lan. Trước đây, người ta đã báo cáo rằng cá chẽm nuôi ở Penang, Malaysia đã bị SDS vào năm 1992.
Cá bị nhiễm SDDV thường biểu hiện các dấu hiệu lâm sàng và đặc điểm bệnh lý, bao gồm cơ thể sẫm màu, vây bị xói mòn, lồi mắt, mất vảy và xuất huyết kèm theo các biểu hiện lờ đờ, phần lưng sẫm màu của cơ thể, mất vảy nghiêm trọng, đỏ ở phần bụng và có xu hướng bơi trên mặt nước. Các dấu hiệu lâm sàng rõ ràng nhất là vảy dễ bong ra khi cọ xát nhẹ và xuất huyết da ở phần bụng của cơ thể. Bên trong, gan và tỳ tạng có vẻ to ra với xuất huyết. Thỉnh thoảng, một số ít rận biển (Caligus sp.) và ký sinh trùng ngoài (Dactylogyrus sp.) được tìm thấy trên mang của cá khỏe mạnh và bị ảnh hưởng. Có vẻ như tất cả những con cá bị ảnh hưởng đều có các dấu hiệu lâm sàng điển hình của tình trạng rụng vảy, nhưng với mức độ nghiêm trọng khác nhau.
Có tình trạng tắc nghẽn nghiêm trọng ở hầu hết các mạch máu của gan, một số có huyết khối trong khi một số ít cho thấy tình trạng vòng bít quanh mạch máu. Nhiều tế bào gan cho thấy tình trạng không bào rõ ràng của tế bào chất. Có bằng chứng về sự hiện diện của các tế bào phì đại ưa kiềm và thể vùi trong tế bào chất ở gan, cho thấy nguyên nhân có thể là do vi-rút. Thận cho thấy tình trạng thoái hóa các ống thận và sự xâm nhập của các tế bào viêm lympho bào, trong khi nhiều cầu thận có vẻ bị teo hoặc teo lại, khiến khoang Bowman có vẻ tương đối rộng. Tỳ tạng cho thấy tình trạng tắc nghẽn nghiêm trọng và xuất huyết ở tủy đỏ và tăng trung tâm đại thực bào hắc tố (MMC) trên toàn bộ phần lách (không hiển thị). Não cho thấy tình trạng tắc nghẽn nhẹ, xuất huyết và sự xâm nhập của các tế bào viêm giống tế bào lympho ở cả màng não và nhu mô não.
Ngoài những ghi nhận thông qua chẩn đoán lâm sàng thì có thể xác định virus bằng kính hiển vi điện tử (TEM), sự hiện diện của nhiều hạt virus trong tế bào chất của các tế bào bị nhiễm bệnh. Các phân tích PCR và trình tự cho thấy tất cả các loài cá bị ảnh hưởng đều dương tính với virus gây bệnh rụng vảy (SDDV).