Nguyên nhân hội chứng co cơ trên tôm
Hệ thống nuôi tuần hoàn trong nhà (RAS) để sản xuất tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) đã thu hút được nhiều nghiên cứu và lợi ích kinh tế vì chúng tương đối thân thiện với môi trường và đảm bảo an toàn sinh học. Áp dụng hệ thống cũng có thể nằm trong đất liền, cách xa những vùng đất ven biển đắt đỏ, tôm được nuôi ở khí hậu ôn đới và gần các thị trường chính. Tôm có thể được nuôi trong các hệ thống nước sạch hoặc sử dụng công nghệ biofloc. Các cơ sở nuôi nội địa thường lấy nước nuôi bằng cách pha muối biển tổng hợp với nước từ giếng hoặc các nguồn nước khác .
Sản xuất tôm thương phẩm có thể thay từ 0,5 đến 10% nước hàng ngày. Việc này có thể làm cho hệ thống hệ thống tích luỹ các yếu tố ở mức độ nhỏ hơn nhưng độc hại khi vượt quá ngưỡng cho phép, chúng bao gồm: Đồng, Cadmium, Chromium, Chì, Thủy ngân, Mangan, Selenium, và Kẽm. Hoặc mất các ion quan trọng cần thiết để duy trì tốc độ tăng trưởng và mức độ sống sót của tôm như Canxi, Chloride, Magiê, Phốt pho, Kali, Natri và Sulphur. Vấn đề này là nguyên nhân cơ bản dẫn đến hội chứng co cơ trên tôm nuôi.
Hội chứng co cơ (Cramp Muscle Syndrome - CMS) hay hội chứng chuột rút đã được đề xuất với nguyên nhân gây ra bởi các yếu tố sinh lý hoặc các yếu tố môi trường dinh dưỡng. Thiếu Kali hoặc môi trường giảm (so với các nguyên tố khác như Ca, Na và Mg) có thể là yếu tố chính trong nguyên nhân gây ra hội chứng co cơ (CMS) trên tôm. Một phần cơ bụng tôm có dấu hiệu bị co cứng, trong khi các bộ phận khác của cơ thể đầy đủ bình thường. Gây hạn chế khả năng di chuyển của tôm, bắt mồi kém và tăng trưởng chậm. Khi hàm lượng Oxygen trong hệ thống bị giảm sút có thể làm chết tôm nhanh chóng hơn.
Hệ thống tuần hoàn trong nuôi tôm.
Thí nghiệm chứng minh
Vấn đề này đã được thảo luận trong một bài báo trình bày tại Hội nghị Quốc tế về Nuôi trồng Thuỷ sản được tổ chức vào mùa hè năm ngoái tại Roanoke, Virginia. Bởi tiến sĩ David Kuhn thuộc Virginia Tech, Blacksburg và cộng sự.
Để mô tả cách quản lý các phần tử trong RAS nuôi tôm, Kuhn đã bố trí thí nghiệm như sau:
Sử dụng nguồn nước ở một cơ sở nước sạch trong nội địa để nuôi tôm thẻ chân trắng Thái Bình (Litopenaeus vannamei) sử dụng lọc RAS điển hình. Cùng với muối biển tổng hợp (Crystal Sea Marine Mix) đã được thêm vào nước giếng để tạo độ mặn là 10 – 12 ‰. Nhiệt độ được duy trì ở khoảng 30 ° C và nồng độ oxy hòa tan ở 5,0 mg/l hoặc cao hơn. Amoniac và nitri ít hơn 0,75 mg / l, sự tích tụ nitrat-N dưới 200 mg /l. Duy trì các sinh vật phù du, đảm bảo chất lượng nước tốt và cung cấp thức ăn dinh dưỡng để có được sự sống còn cao hơn.
Sau một tháng hoạt động của RAS, một số lượng lớn tôm bắt đầu cho thấy có triệu chứng co cơ sau khi được xử lý, trong đó một tỷ lệ lớn tôm không hồi phục.
Một điều đáng chú ý trong thú nghiệm trên là sau một tháng hoạt động, nồng độ kali được xác định bằng khoảng một nửa so với nước biển thông thường (50 – 75 so với 100 – 125mg / l). Chứng tỏ việc thiếu Kali có ảnh hưởng rất lớn đến hội chứng co cơ (CMS) trên tôm.