Cá rô phi là loài rộng muối và cá được nuôi phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan,… (Abu et al., 2005). Khi diện tích nuôi và sản lượng tăng thì khả năng gây ô nhiễm môi trường ngày càng cao, do đó việc nghiên cứu ảnh hưởng các tác nhân sinh học là xu hướng tích cực góp phần ổn định môi trường và hạn chế dịch bệnh trong ao nuôi.
Công nghệ biofloc là một giải pháp công nghệ sinh học mới góp phần phát triển ngành nuôi trồng thủy sản theo hướng bền vững, an toàn sinh học và thân thiện với môi trường nhờ những khả năng vượt trội sau đây: (1) Loại bỏ ammonia tự do trong nước ao nuôi bằng cách chuyển hóa thành protein trong sinh khối vi khuẩn dị dưỡng trong các biofloc, (2) Động vật thủy sản nuôi sử dụng biofloc làm thức ăn, do vậy tỷ lệ chuyển hóa protein trong thức ăn được tăng lên đến 45 – 50%, (3) Nâng cao mức độ an toàn sinh học và giảm rủi ro do bệnh.
Theo Azim and Little (2008), nuôi cá rô phi trong biofloc thì tốc độ tăng trưởng của cá nhanh hơn và chất lượng môi trường nước cũng tốt hơn so với không biofloc. Tương tự, Guozhi et al (2014) cho rằng khi nuôi cá rô phi trong hệ thống biofloc thì khối lượng cá thu hoạch cao hơn 22% và hệ số chuyển hóa thức ăn thấp hơn 18% so với cá nuôi trong hệ thống tuần hoàn hay không biofloc. Nghiên cứu trước đây đã đánh giá khả năng sử dụng men bia trong hệ thống biofloc giúp nâng cao chất lượng dinh dưỡng của biofloc, nâng cao khả năng tiêu hóa cho động vật nuôi, kích thích tăng trưởng. Do đó, mục đích của nghiên cứu này là so sánh hiệu quả của men bia như một nguồn protein thay vì bột cá trong chế độ ăn của cá rô phi (Oreochromis niloticus) được nuôi trong hoặc nước trong hoặc điều kiện biofloc.
Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 4 nghiệm thức, cá rô phi chưa trưởng thành (trọng lượng ban đầu là 29 ± 3,2 g), được phân bố ngẫu nhiên vào 24 bể 500 L hình nón để tiến hành thí nghiệm. Các nghiệm thức sử dụng thức ăn có cùng mức protein 5% và năng lượng 19 KJ/g. Nghiệm thức cho ăn lần lượt với liều lượng men bia như sau 0%, 30%, 60% và 100% protein bột cá được thay thế bằng men. Cá được nuôi trong 3 tháng, cho ăn bằng tay hai lần một ngày.
12 bể chứa trong một hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn (RAS) với nước trong, với các bộ lọc cơ học và sinh học và trung bình thay thế nước hàng ngày 15%. 12 bể khác được kết nối với bốn bể sinh học mở 10 m3 nối tiếp ban đầu được nuôi bằng Bacillus subtilis và các chất dinh dưỡng để đạt được tỷ lệ C: N là 10, hỗ trợ sự phát triển của vi khuẩn.
Kết thúc thí nghiệm, lượng thức ăn, lượng protein , tăng cân, tăng cân hàng ngày, tốc độ tăng trưởng cụ thể, tỷ lệ chuyển đổi thức ăn , tỷ lệ hiệu quả protein, tỷ lệ sống và chỉ số cơ thể của cá rô phi đã được xác định.
Kết quả
Sau 3 tháng thí nghiệm cá được nuôi trong môi trường nước sạch có mức tăng trưởng tăng trọng thấp hơn so với nuôi trong môi trường biofloc bổ sung men bia. Mặc dù lượng thức ăn và protein gần như giống hệt nhau trong cả hai môi trường, sự tăng trưởng cao hơn đáng kể đã được quan sát thấy ở cá được nuôi trong môi trường biofloc, kèm theo tỷ lệ chuyển đổi thức ăn và hiệu quả protein được cải thiện đáng kể và giảm tỷ lệ tử vong.
Trong các nghiệm thức bổ sung men bia thì nghiệm thức bổ sung 60% men bia cho thấy trọng lượng cuối cùng, tốc độ tăng trưởng tương đối và tuyệt đối đạt giá trị cao nhất và giá trị FCR đạt giá trị thấp nhất.
Từ nghiên cứu có thể kết luận rằng bà con có thể sử dụng men bia với liều lượng 60% thay thế bột cá mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỉ lệ sống của cá rô phi. Đồng thời cá nuôi trong môi trường biofloc sẻ mang lại hiệu quả cao, kích thích tăng trưởng, từ đó nâng cao tỉ lệ sống đem lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi.
Theo Nguyễn Hữu Yên Nhi và cộng sự.