Hiện nay, tốc độ thâm canh hóa ngày càng gia tăng gây ra tác dụng phụ đối với năng suất của động vật thủy sản do sức chứa lớn, phát thải amoniac, thức ăn thừa, thiếu oxy hòa tan, phân và vật liệu hữu cơ. Những điều kiện căng thẳng này làm giảm tiêu thụ thức ăn, tốc độ tăng trưởng, khả năng miễn dịch và các phản ứng chống oxy hóa và gia tăng khả năng lây nhiễm vi khuẩn.
Một số nỗ lực quản lý để nâng cao chất lượng nước thường được áp dụng, bao gồm thay nước thường xuyên, bơm oxy, sử dụng bàn đạp, lọc nước bằng bộ lọc cơ học và sinh học, và bao gồm một số vi sinh vật nitrat hóa. Ngoài ra, các chất thảo dược chức năng, chẳng hạn như phụ gia thức ăn hoặc nước, được khuyến khích sử dụng như chất phụ gia thân thiện với môi trường.
Yucca có một lượng dồi dào polyphenol, saponin steroid và resveratrol và có thể được sử dụng dưới dạng dung dịch hoặc dưới dạng bột để hấp phụ amoniac trong nước. Ngoài ra, sử dụng dịch chiết yucca giúp cải thiện hiệu quả sử dụng thức ăn, hiệu suất tăng trưởng và tình trạng sinh lý của các loài thủy sản. Ngoài ra, ứng dụng yucca dẫn đến tăng cường phản ứng chống oxy hóa, miễn dịch và chống viêm, tăng cường tỷ lệ sống. Đồng thời, yucca được đặc trưng bởi khả năng chống stress và các tác dụng có lợi khiến nó trở thành một chất phụ gia thực vật tiềm năng cho ngành nuôi trồng thủy sản.
Nghiên cứu hiện tại được thực hiện để đánh giá tác động của chiết xuất của yucca, Yucca schidigera và/hoặc nấm men, Saccharomyces cerevisiae, được sử dụng làm chất phụ gia trong nước đối với năng suất của cá rô phi (Oreochromis niloticus).
Nghiên cứu đánh giá tác động của Yucca và nấm men Saccharomyces cerevisiae đối với cá rô phi. Ảnh: bmkgenetics.
Cá có trọng lượng (28–32 g) được bố trí ngẫu nhiên trong 12 ao rộng 2 m3 với mật độ 20 con / m 3 và được chỉ định cho bốn nghiệm thức, trong đó:
- Các ao đối chứng không được bổ sung bất kỳ chất phụ gia nào
- Nghiệm thức bổ sung yucca
- Nghiệm thức bổ sung nấm men
- Nghiệm thức bổ sung hỗn hợp yucca + nấm men
Trong đó, yucca và/hoặc nấm men được bổ sung hàng ngày vào nước ao ở mức 1,0 g yucca/m3 và/hoặc 1,0 g nấm men/m3 trong 8 tuần.
Sau 8 tuần theo dõi, kết quả cho thấy nhiệt độ nước và oxy hòa tan đều không bị ảnh hưởng đáng kể bởi quá trình xử lý yucca và/hoặc nấm men, nhưng nồng độ pH và NH3 đã giảm đáng kể (P<0,05) bởi các phụ gia nước này, đặc biệt là ở nghiệm thức yucca + nấm men. Các nghiệm thức bổ sung phụ gia có nồng độ NH3 thấp hơn nhiều so với đối chứng và đạt giá trị thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung yucca+nấm men.
Hiệu suất tăng trưởng của cá rô phi đã được cải thiện đáng kể nhờ các chất phụ gia này và hiệu suất tăng trưởng cao nhất được quan sát thấy ở cá được xử lý bằng yucca + nấm men.
Ngược lại, các phương pháp điều trị bằng YE và/hoặc nấm men không ảnh hưởng đến nồng độ glucose, alanin aminotransferase và phosphatase kiềm. Tuy nhiên, mức độ tổng số lipid huyết thanh, tổng số protein, albumin và globulin cao hơn ở cá được xử lý bằng yucca + nấm men so với cá được quan sát thấy ở cá đối chứng.
Thêm yucca và/hoặc nấm men vào nước ao làm giảm đáng kể nồng độ aspartate aminotransferase, axit uric và creatinine (P <0,05) ở cá, đặc biệt là với việc xử lý bằng yucca + nấm men.
Ngoài ra, các hoạt động của superoxide dismutase, catalase và glutathione peroxidase cao hơn đáng kể, trong khi malondialdehyde thấp hơn đáng kể, đã được quan sát thấy ở cá được xử lý bằng yucca + nấm men (P <0,05).
Nhìn chung, những kết quả này cho thấy rằng việc sử dụng 1,0 g / L của cả YE + nấm men làm chất phụ gia trong nước đã cải thiện chất lượng nước bằng cách giảm độ pH và nồng độ amoniac, giúp cải thiện sự phát triển của cá và giảm stress oxy hóa ở cá rô phi.
References: Bilal Ahamad Paray et al. (2021), Yucca schidigera Usage for Healthy Aquatic Animals: Potential Roles for Sustainability, Animals 2021, 11(1), 93; https://doi.org/10.3390/ani11010093.