Người ta có mấy ai được chọn nghề, mà nghề thì chọn họ, rồi họ gắn bó cả đời mình, có khi lại đến đời con, đời cháu. Nghề đi biển cũng là như vậy. Có người cũng hỏi rằng: biết nghề biển lắm khó khăn sao không tìm cách đổi nghề? “Thì thôi, đổi nghề rồi lấy gì mà sống, lấy gì mà cho con ăn học, à mà cũng có, có nhiều người bỏ biển chuyển sang nghề khác, nhưng rồi cũng đôi ba năm lại quay về với biển, đi biển nó ngấm vào cái chân cả rồi, không đi thì lại không đặng”.
Chân người làng chài là để đi biển
Cả đời người ta bám víu vô đầu sóng ngọn gió, da thịt ngấm dần mặn chát, mồ hôi nôm cũng như muối biển. Dân làng biển có hai chân: một trên bờ, một ngoài khơi đạp sóng. Ông cha rồi con cái, một nhà rồi cả làng, cả xã, nghề biển được truyền qua nhiều thế hệ, hình thành nên những làng chài, làng nghề gắn bó với biển khơi. Nhờ biển mà họ có miếng ăn, nhờ biển mà con cái được học hành, gia đình có mái nhà kiên cố.
Một ngư dân vùng biển Ba Đồn cho hay: tàu của anh có công suất khoảng 150CV, anh là chủ tàu và kiêm thuyền trưởng, cùng với 6 ngư phủ đi đánh bắt khắp các ngư trường, nhưng chủ yếu là ở Vịnh Bắc Bộ và vùng biển Hoàng Sa. Vài năm trở lại đây sản lượng sụt giảm, năng suất đánh bắt cũng kém đi. Mỗi chuyến đi biển kéo dài từ 15 đến 18 ngày, được luồng cá trúng thì chi phí cho anh em bạn thuyền mỗi người được 5 - 6 triệu đồng, còn ngược lại thì 2 - 3 triệu. Đôi lúc lại phải bù tổn, chưa kể đến các chi phí sửa tàu, mua nhu yếu phẩm, chi phí xăng dầu, nước đá… Mỗi chuyến đi anh phải đóng tổn khoảng 40 triệu đồng. Nói đến tương lai, anh vẫn chưa có nhiều dự định cho việc đổi nghề khác. Nghề biển bám vào xương tủy anh và những người bạn thuyền, sống nhờ biển, có khi chết cũng vì biển.
Nghề biển nhọc nhằn, càng khổ càng nghèo, mà nghèo lại càng thêm khổ...
“Ở làng chài này, ai khá đôi chút thì đầu tư tàu to, máy mạnh vươn sóng ra những ngư trường xa. Còn nghèo như tụi anh thì trông mong vào mấy chuyến thuyền gần bờ”, một ngư dân chia sẻ. Gia đình có 5 người đều dựa vào những chuyến đánh bắt gần bờ của anh. Tầm 4 -5 giờ chiều lại chuẩn bị lưới để đi biển, rồi cứ độ 5 giờ sáng mai lại quay về cho kịp chợ sáng. Mỗi ngày kiếm được 3 - 4 trăm ngàn, có khi cũng chưa đủ tiền dầu. Sống qua ngày và làm thêm vài chuyện trên đất liền để tích cốp thêm thu nhập cho mấy miệng ăn. Đó là câu chuyện của anh Long (41 tuổi, phường Quảng Phúc) được các bạn nghề báo chia sẻ lại.
Nghề biển nhọc nhằn, mà chẳng được là bao. Một chuyến đi chỉ phó vào 2 chữ “trời thương”!
Cược mạng với thủy thần
Gần đây, tôi có dịp xem tin về một gia đình ngư dân phải ly biệt nhau vì nghề biển (tin “Xé lòng tiếng khóc ngư dân mất vợ, lạc con sau tai nạn chìm tàu thương tâm” do báo Thanh Niên đưa tin), hóa ra câu “sinh nghề tử nghiệp” lại rất đúng và lại đúng với nghề biển, với trường hợp này.
Câu chuyện về người ngư phủ cùng gia đình ra khơi, với những ước nguyện tôm cá đủ đầy, nhưng trở về với xác vợ, xác tàu và mất tích con trai, đủ để xé lòng những ai mạnh mẻ nhất. Người ngư dân rắn rỏi và kiên cường lắm, họ không dễ khóc trước những khó khăn. Ngoài kia biển to, sóng lớn, có đợt bão cuồng phong, tàu chìm, họ phải lênh đênh mấy ngày mới được cứu, vậy mà chưa khi nào họ khóc. Nhưng người ngư dân này dẫu có mạnh mẽ đến đâu cũng phải yếu lòng trước giờ ly biệt, vì chưa khi nào khóc nên có lẽ anh cũng không biết khóc sau, chỉ thốt lên trong nghẹn ứ vài từ: “trời ơi”, “vợ ơi”, “con ơi”. Nghề biển tàn nhẫn quá mà!
Lắm khi mỗi chuyến ra khơi người ngư dân không cầu bội thu hay biển êm sóng lặng, mà chỉ đơn giản, họ cầu trời 2 chữ “bình an”
Phải, nghề biển tàn nhẫn quá mà, biển nuốt chửng không biết bao nhiêu người, không biết bao nhiêu kế sinh nhai của người làng biển. Nhưng cũng có đôi lúc biển hiền hòa, hào sảng, biển no đầy tôm cá, trù phú cho ngư dân cái lợi cá tươi, được mùa trúng giá. Người ngư dân cũng ủi an phần nào khó nhọc.
Nghề đi biển phải dần đổi thay
Phần do, người ta đã quen với nếp khai thác truyền thống, phương tiện, trang thiết bị thô sơ,… nên dễ gặp nhiều nguy năn khi đi biển.
Nghề đi biển phải dần thay đổi. Nhà nước đã có rất nhiều quan tâm đến những khó khăn của nghề, bằng cách hỗ trợ vay vốn đóng, sửa tàu, đầu tư trang thiết bị hỗ trợ hiện đại hơn. Ngư trường an toàn nhờ quốc phòng, an ninh trên biển được đảm bảo và xác lập chủ quyền với thế giới. Nhiều hoạt động tuyên truyền, giáo dục hướng đến đánh bắt an toàn và bền vững; hỗ trợ từ các hội, nhóm, tổ chức tạo việc làm tăng thêm sinh kế cho các hộ ngư dân. Đầu tư các thiết bị giám sát, cứu hộ kịp thời khi có tai nạn xảy ra. Và còn nhiều hoạt động tích cực khác giúp cho người ngư dân vững tâm bám biển.
Song mặc tồn tại vẫn còn không ít, trong công tác quy hoạch và triển khai. Có không ít các hộ ngư dân chưa tiếp cận được với nguồn vốn vay. Hoặc có tiếp cận nhưng thủ tục chồng chéo. Ngư dân vẫn chưa nâng cao nhận thức bảo vệ mình, bảo vệ cộng đồng và bảo vệ nguồn lợi, từ không chú trọng trang bị các thiết bị định vị, liên lạc, dự báo thời tiết, đến ý thức đánh bắt kém bền vững, tận diệt. Sử dụng lao động chưa đủ tuổi, vi phạm các quy định về truy xuất nguồn gốc, … làm giảm giá trị thủy sản và uy tín của nghề cá Việt Nam.
Người ngư dân, nhà nước, nhà khoa học, thương gia, … cần có nhiều thay đổi đến hướng đến một nghề cá bền vững, giảm thiểu những rủi ro.
Dẫu có nhiều mất mát và cơ cực đi nữa, thì người ngư dân vẫn tươi cười bám biển. Hôm nay họ có đau lòng, khó nhọc, biển có hằn học, cuồng phong, thì ngày mai trời lại tươi trong, nắng lại hồng và thuyền của họ lại giông buồm ra biển với ước mong khoang cá chở đầy!