Từ lâu, ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến động vật thủy sản đã được tiến hành nghiên cứu. Các tác nhân vật lý (nhiệt độ, ánh sáng, độ đục) và tác nhân hóa học (DO, pH, NH3, NO2-,....) giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thủy sản. Trong đó, ánh sáng là yếu tố ít được quan tâm nhưng lại có một ý nghĩa đáng kể đến thủy vực với tác động vừa gián tiếp vừa trực tiếp đến môi trường nước và đời sống của động vật thủy sản. Tuy nhiên, vẫn có loài có thể sống mà không cần ánh sáng, đặc biệt là những loài sống ở vùng biển sâu hoặc các hang động.
Một số khái niệm về ánh sáng trong thủy vực
Chất lượng ánh sáng (light quality): Được hiểu là những bước sóng khác nhau được hấp thụ bởi nước với những mức độ khác nhau. Các tia sáng có ánh sáng có bước sóng dài ngắn (đỏ, cam), và ngắn (hồng ngoại, tím) bị hấp thụ và phân tán mạnh hơn so với các tia sáng có bước sóng trung bình (lục, lam và vàng). Ánh sáng xanh dương có bước sóng 450-500 nm xuyên qua mặt nước sâu nhất.
Số lượng ánh sáng (light quantity): Được hiểu là cường độ ánh sáng khác nhau với đơn vị của độ chiếu sáng (photometric unit) là lux (lumen/m2).
Chu kì quang (photoperiod): Thời gian chiếu sáng trong vòng 1 ngày, bị ảnh hưởng bởi mùa và vị trí địa lý.
Tầng sáng (Euphotic zone): Là tầng đạt đến độ sâu ở đó cường độ ánh sáng bằng 1% cường độ ánh sáng ở bề mặt nước. Độ sâu của tầng sáng phụ thuộc vào độ đục của nước. Nước ao, hồ thường chứa các vật chất lơ lửng ảnh hưởng tới sự đâm xuyên của của ánh sáng (Boyd C.E.,1990).
Ảnh hưởng của ánh sáng trong nuôi trồng thủy sản
Khi ánh sáng đi qua nước, một phần ánh sáng chiếu tới thì không xuyên thấu qua bề mặt nước ao mà bị phản chiếu lại không khí. Khả năng xuyên thấu của ánh sáng vào nước phụ thuộc vào tính phẳng lặng của nước và góc của tia sáng so với mặt nước. Bề mặt càng phẳng lặng và góc tia tới càng thẳng đứng thì ánh sáng càng dễ dàng xuyên suốt sâu xuống nước. Ánh sáng thay đổi chất lượng quang phổ và giảm cường độ, khi xuyên thấu qua nước ánh sáng bị phân tán và hấp thụ bởi cột nước.
Ánh sáng ảnh hưởng đến thủy sinh thực vật
Ánh sáng là nguồn cung cấp năng lượng cho năng suất sản xuất của ao hồ. Thực vật, sinh vật tự dưỡng, sử dụng ánh sáng mặt trời xuyên qua mặt nước để sản xuất “thức ăn” cho chính bản thân nó qua quá trình quang hợp.
Phiêu sinh vật là nguồn thức ăn cho cá, tôm trong ao nuôi. Nhưng trong những điều kiện thuận lợi về chất dinh dưỡng và ánh sáng thì có thể xảy ra hiện tượng nở hoa, phát triển quá mức kiểm soát của loài thủy sinh thực vật. Khi mật độ tảo trong ao quá dày thì vào thời điểm buổi trưa với cường độ ánh sáng mạnh thì hàm lượng oxy hòa tan trong ao rất cao, do quá trình quang hợp của thủy sinh tạo ra. Nhưng khi cường độ ánh sáng yếu đi thì quá trình hô hấp sẽ chiếm ưu thế làm cho oxy hòa tan trong ao giảm mạnh có thể xuống tới 0 mg/L. Ngoài ra, khi điều kiện không còn thuận lợi để phát triển nữa tảo sẽ chết đồng loạt tạo nên một lượng lớn mùn bã hữu cơ, việc phân hủy mùn bã hữu cơ này cần rất nhiều oxy và có thể sinh ra khí độc.
Tảo nở hoa gây độc cho cá.
Như vậy, ánh sáng ảnh hưởng gián tiếp tới nồng độ oxy hòa tan của ao thông qua thủy sinh thực vật.
Để diệt tảo trong ao người ta thường dùng đồng Sunfat (CuSO4) với nồng độ bằng 1% độ kiềm của ao.
Ánh sáng ảnh hưởng đến đáy ao
Độ đục thích hợp trong ao nuôi thủy sản là 20-40 cm, nếu nước trong quá thì ánh sáng sẽ dễ dàng thâm nhập đến đáy ao thúc đẩy cho những loài vi sinh vật không mong muốn ở đáy ao phát triển sinh ra khí độc và các loài thực vật lớn (macrophyte). Một phương pháp hiệu quả dùng để kiểm soát nhiều loài thực vật thượng đẳng phát triển ở đáy ao là bón phân để tạo độ đục của tạo và che ánh sáng xâm nhập xuống đáy ao.
Ảnh hưởng trực tiếp của ánh sáng đến cá và giáp xác
Cá rất nhạy cảm đối với ánh sáng trong đó mắt là cơ quan thụ cảm ánh sáng chủ yếu, mặc dù ở một số loài có xương sống khác, tuyến yên cũng đóng vai trò quan trọng. Cơ quan thụ cảm ánh sáng của cá và giáp xác cũng thay đổi theo giai đoạn phát triển. Khi các mới nở, mắt cá thường trong suốt và rất khó phân biệt võng mạc mắt. Trong quá trình tiêu thụ noãn hoàn, võng mặt phát triển dần dần và hoàn thiện theo thời gian tùy từng loài. Chính trong giai đoạn chuyển đổi từ ấu trùng đến ấu niên, ánh sáng ảnh hưởng rất lớn đến sắc tố và một số bất thường trong quá trình phát triển có thể xảy ra nếu ánh sáng không đủ.
Ở một số loài cá dẹp, giới hạn nhìn thấy của chúng giảm theo thời gian và còn các cơ quan cảm giác khác thì tăng lên. Trong một thí nghiệm của Gulbrandsen J. và ctv (1996), việc sử dụng thiết bị chiếu sáng chìm trong nước khi ương cá bột halibut đã làm tăng tỷ lệ sống của cá so với sử dụng ánh sáng bên ngoài. Tương tự một loài cá dẹp khác, cá bơn Rhombosolea được ương trong điều kiện tối hoàn toàn thì tỷ lệ chết lên đến 100% (Hart P.R và ctv, 1996). Trái lại, đối với cá chẽm châu Âu Dicentrarchus labrax, tỷ lệ sống của cá mới nở rất thấp khi được ương trong môi trường có cường độ ánh sáng mạnh (Barahona – Fernandes M.H, 1979).
Cường độ ánh sáng (lux) | Loài | Nguồn |
<1 | Cá trích | Blaxter, 1975 |
1 | Cá chẽm sọc | Chesney, 1989 |
1-10 | Cá bơn halibut | Hole và Pittman, 1995 |
50 | Cá hồi chấm bông Bắc Cực | Wallace et al., 1988 |
50-150 | Cá vền đầu vàng | Ounais-Guschemann, 1989 |
200-600 | Cá hồi Altantic | Mortensen và Damsgard, 1993 |
350 | Cá Bơn | Daniels et al, 1996 |
1000 | Rabbitfish | Duray và Kohno, 1988 |
Sự phát triển tuyến sinh dục của một số loài cá tùy thuộc vào sự biến động của quang kỳ. Một số loài cá thành thục sớm khi quang kì giảm do đó người ta đã giảm thời gian chiếu sáng ban ngày giúp cá hồi Salmon trutta sinh sản vào đầu hè thay vì cuối thu (Barnabe G., 1994). Hoặc cá Brachiraphis episcopi được tăng cường ánh sáng nhân tạo để đẻ vào mùa đông sớm hơn so với thông thường là mùa xuân (Turner C.L., 1938).