I. Kết quả quan trắc môi trường, giám sát dịch bệnh tại Khánh Hòa
1. Thông số quan trắc môi trường
+ Khu vực nuôi tôm nước lợ: Kết quả quan trắc môi trường khu vực nước cấp cho nuôi tôm nước lợ hầu hết các thông số chất lượng nước đều nằm trong khoảng giá trị cho phép. Chưa phát hiện vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus và thành phần tảo độc trong các mẫu nước kiểm tra.
+ Khu vực nuôi tôm hùm lồng: Một số chỉ tiêu môi trường vượt giới hạn cho phép. Hàm lượng oxy hòa tan trong nước (DO) dao động ở mức 5,56-6,38 mg/L. Hầu hết vẫn chưa phù hợp nuôi tôm hùm theo QĐ số 2383/QĐ-BNN-NTTS (từ 6,20-7,20 mg/L). Cụ thể, DO tại Đầm Môn, Vạn Thạnh, Vạn Ninh dao động từ 5,92-6,08(mg/L); Xuân Tự từ 5,56-5,82 (mg/L). Riêng khu vực Vũng Ngán hàm lượng oxy hòa tan phù hợp nuôi tôm hùm (6,32-6,38 mg/L). Mật độ vi khuẩn Vibrio vượt giới hạn cho phép tại khu nuôi Đầm Môn (1,1 x 103 cfu/mL), Xuân Tự (2,2 x 103 cfu/mL).
+ Khu vực nuôi cá biển (Hòn Lăng, Ninh Ích, Ninh Hòa): Tại thời điểm ngày 27/7/2018, hầu hết các thông số môi trường nước (NO2, COD, PO4) đều nằm trong giới hạn cho phép (QCVN 10MT:2015/BTNMT). Tuy nhiên, thông số nhiệt độ (310C) và độ mặn (35‰) tương đối cao, oxy hòa tan (4,9 mg/L) tương đối thấp. Nước có hiện tượng phân tầng (tầng giữa có nhiệt độ thấp hơn từ 2-30C so với tầng mặt và tầng đáy của lồng nuôi).
2. Giám sát dịch bệnh
- Tôm thẻ, tôm sú: đa số các mẫu nhiễm EHP.
- Tôm hùm: tình hình nuôi tôm hùm trong tháng 7 tương đối ổn định, cán bộ Chi cục thường xuyên giám sát vùng nuôi để phát hiện tình hình dịch bệnh.
- Cá biển nuôi lồng: Cá mú, cá chim có hiện tượng chết bất thường lên đến hàng trăm con, trong các ngày từ 25-27/7/2018 tại Ninh Ích, Ninh Hòa. Phát hiện cá mú bị bệnh hoại tử thần kinh (VNN) và nhiễm sán lá đơn chủ ký sinh trên mang với mật độ cao (hàng chục trùng/mang cá). Cá chim chưa phát hiện dấu hiệu bệnh.
Hình 3: Sán lá đơn chủ (Pseudorhabdosynochus spp) ký sinh trên mang cá mú (Mẫu thực hiện tại Chi cục).
II. Khuyến cáo
1. Vùng nuôi tôm nước lợ
- Các vùng nuôi tôm nước lợ có thể lấy nước vào ao chứa lắng, xử lý khử trùng trước khi sử dụng.
- Thời tiết thường có mưa giông vào buổi chiều tối nên người nuôi cần rải vôi xung quanh bờ ao, duy trì mực nước từ 1,3-1,5 m. Tăng cường quạt nước, giảm phân tầng, đảm bảo lượng oxy hòa tan. Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường nước ao nuôi như nhiệt độ, pH, oxy hòa tan, độ kiềm để kịp thời phát hiện và xử lý khi có biến động bất thường.
2. Vùng nuôi tôm hùm lồng
- Các vùng nuôi có hàm lượng oxy hòa tan trong nước chưa đảm bảo cho tôm hùm nuôi,mật độ vi khuẩn Vibrio cao, người nuôi cần thường xuyên theo dõi tôm; san thưa mật độ tôm; tách riêng những cá thể yếu, bệnh; vệ sinh lồng nuôi cho nước thông thoáng tránh hiện tượng hầu, hà, rong rêu làm bít lỗ lưới; chú ý kiểm tra sự phân tầng nước (nhiệt độ, độ mặn, oxy hòa tan) để điều chỉnh lồng nuôi cho phù hợp.
- Phòng bệnh cho tôm nuôi bằng cách treo túi vôi xung quanh lồng; sát trùng thức ăn bằng thuốc tím; bổ sung các chế phẩm sinh học, vitamin và khoáng chất vào thức ăn cho tôm hùm nuôi.
3. Vùng nuôi cá biển
- Người nuôi cần tuân thủ các biện pháp kỹ thuật nuôi của đối tượng cá biển; Áp dụng và thực hành tốt hơn các biện pháp phòng bệnh tổng hợp đối với nuôi trồng thủy sản bằng lồng bè trên biển.
- Xét nghiệm giống sạch với virus VNN trước khi thả giống.
- Thức ăn cho cá phải đảm bảo tươi, hoặc nấu chín, cá tạp phải được rửa sạch bằng nước ngọt trước khi cho ăn. Sử dụng thuốc tỏi, Beta glucan và Vitamin C trộn vào thức ăn cho cá ăn định kỳ 7-10 ngày/đợt để tăng sức đề kháng cho đàn cá nuôi.
- Theo dõi tình trạng sức khỏe và hoạt động của cá hàng ngày. Định kỳ vệ sinh lồng và lưới hàng tháng, loại bỏ rong rêu bám quanh lồng; Tắm cá định kỳ bằng nước ngọt hoặc oxy già để loại trừ ký sinh trùng ngoại ký sinh.
- Thả ghép thêm cá dìa với mật độ 2 con/m3 nước để dọn sạch lồng nuôi giảm ô nhiễm nước, hạn chế dịch bệnh.
- Đối với đàn cá nuôi có hiện tượng bệnh nên sử dụng thuốc tỏi, Beta glucan và Vitamin C trộn với liều lượng gấp 1,5 - 2 lần bình thường, trộn vào thức ăn cho đàn cá ăn; giảm 50% lượng thức ăn hàng ngày và tăng dần lượng thức ăn khi đàn cá có dấu hiệu hồi phục; nếu có thể di chuyển cách ly ô lồng cá bệnh ra xa khu vực nuôi, không nên để những lồng nuôi có cá bệnh đầu dòng nước; thu gom và đưa cá bệnh vào bờ chôn hoặc xử lý bằng nhiệt nấu chín; kiểm tra nhiệt độ nước tầng mặt và độ sâu bị ảnh hưởng của nhiệt độ không khí để hạ lưới lồng xuống độ sâu phù hợp, nên thường xuyên lặn hoặc kéo lồng lên kiểm tra đàn cá nuôi; tiến hành san thưa đàn cá trong các lồng nuôi, theo dõi sức khỏe đàn cá chặt chẽ hơn.